Bài
đăng trên tạp chí "Nghiên cứu Quốc tế"
Tác
giả: Nguyễn Hải Hoành
Quá
trình chuyển biến nhận thức về chiến lược biển của người Trung Quốc
Thực
tế lịch sử cho thấy Trung Quốc tuy là nước lớn nhưng trong thời kỳ cận đại lại
yếu hèn, bị các cường quốc bắt nạt, xâm chiếm. Đầu tiên, năm 1840, hạm đội Anh
chiếm Quảng Châu, chính quyền nhà Thanh buộc phải ký Điều ước Nam Kinh nhục nhã;
cuối cùng, năm 1937 phát xít Nhật tấn công Trung Quốc và dần dần chiếm đóng hầu
hết nước này. Đại tá, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc Lưu Minh Phúc nhận
xét: Căn nguyên của tất cả các thất bại đó là do “Trung Quốc lạc hậu về chiến
lược”. Đồng thời ông đánh giá “Mỹ là nước lớn về chiến lược…, người Mỹ chưa từng
có những sai sót chiến lược gây ra sự tụt lùi của đất nước.”
Chiến
lược quyết định phương hướng và tương lai của một quốc gia, dân tộc. Quốc gia có
chiến lược đúng đắn thì có thể nhanh chóng phát triển và đạt được mục tiêu nước
mạnh dân giàu, nước nhỏ cũng có thể trở thành nước mạnh. Chiến lược sai thì nước
lớn cũng có thể suy yếu, bị các nước khác vượt qua. Sai lầm chiến lược là sai
lầm chết người. Một chiến lược đúng đắn là phải biết phát huy các thế mạnh của
quốc gia, dân tộc, trong đó có thế mạnh về hoàn cảnh thiên nhiên, đặc biệt là
biển.
Biển
là cái nôi sinh ra sự sống; trái đất có biển nên mới có các loài sinh vật, có
loài người. Biển tiềm ẩn vô vàn tài nguyên quý giá, từ tài nguyên năng lượng,
khoáng chất cho tới thực phẩm … Biển cung cấp cho nhân loại những con đường đi
tới khắp nơi trên trái đất; vận tải đường biển là phương tiện vận tải rẻ nhất,
chở được nhiều nhất, tiện lợi nhất. Biển là quà tặng vô giá của thiên nhiên, là
thế mạnh của các quốc gia giáp biển.
Trung
Quốc rộng 9,6 triệu km2, chiều dài bờ biển trên 10 nghìn km, lẽ ra họ phải biết
tận dụng sự ưu đãi ấy. Nhưng dân tộc này có truyền thống đại lục, nền văn minh
nông nghiệp đầu tiên của họ phát triển rực rỡ trên lưu vực Hoàng Hà không có
biển. Tự hào với nền văn minh đó, họ tự cho mình là trung tâm tinh hoa của thiên
hạ (“Trung Hoa”), coi nhẹ biển, không dám vượt biển xa, không đi khắp thế giới
để mở tầm mắt, dẫn đến truyền thống tư duy bảo thủ khép kín.
Truyền
thống đại lục khác với truyền thống biển của phương tây. Vùng ba biển — Địa
Trung Hải, biển Adriatic và biển Aegean — tạo hoàn cảnh địa lý sinh ra nền văn
minh phương Tây rực rỡ. Nền văn minh ấy về sau được phát triển tiếp, chủ yếu
theo tuyến bờ biển phía tây đại lục châu Âu, bởi các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Hà Lan, Anh. Văn minh phương tây trở thành dòng chính của văn minh thế
giới, văn minh Trung Hoa tụt xuống địa vị thứ yếu.
Thực
ra vào thế kỷ XV, khi lịch sử thế giới chuyển từ thời đại lục địa sang thời đại
biển thì trước cả Vasco da Gama và Christopher Columbus, Trung Quốc đã có nhà
hàng hải lớn Trịnh Hòa. Thời gian 1405-1433 Trịnh Hòa từng 7 lần dẫn hạm đội lớn
đi ra biển xa, tới tận phía đông châu Phi. Nhưng sau khi ông ốm chết (1433),
triều đình nhà Minh đã đình chỉ việc đưa thuyền nhà nước đi biển xa, phá hết các
xưởng đóng thuyền, hủy mọi tài liệu ông sưu tầm được trong các chuyến đi biển.
Tư duy đại lục thiển cận ấy đã đem lại hậu quả là từ sau năm 1840, Trung Quốc
ngày một thua to trước sự tấn công từ phía biển của nước ngoài. Năm 1894, toàn
bộ hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh bị tiêu diệt. Trung Quốc từ một nước độc lập
trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa, bị các đế quốc phương Tây và
Nhật Bản xâu xé. Trong khi đó nước Mỹ tuy sinh sau đẻ muộn nhưng nhờ có những
nhà chiến lược biển vĩ đại như Alfred Mahan nên đã tạo dựng được một “sức mạnh
biển” có tính toàn cầu đến bây giờ vẫn mạnh nhất thế giới, bảo đảm nước Mỹ có
địa vị siêu cường duy nhất lãnh đạo toàn thế giới.
Truyền
thống đại lục thâm căn cố đế đã làm cho người Trung Quốc mãi đến giữa thập niên
70 thế kỷ XX mới bắt đầu thực sự coi trọng chiến lược biển. Thời kỳ đó, Mỹ rút
quân ra khỏi Việt Nam, tạo ra tình trạng “khoảng trống” về quyền lực biển ở Biển
Đông; quan hệ Trung Quốc-Mỹ bắt đầu được cải thiện dần; Mỹ rút quân ra khỏi eo
biển Đài Loan; các xung đột trên biển giữa Trung Quốc với Đài Loan cũng chấm
dứt. Những điều kiện lịch sử đó tạo ra thời cơ lớn cho Bắc Kinh mở rộng quyền
lực biển của họ.
Chớp
thời cơ chính quyền Sài Gòn không còn được Mỹ hậu thuẫn, tháng 1/1974, tướng Hứa
Thế Hữu – Tư lệnh Quân khu Quảng Châu – mượn cớ hộ tống ngư dân Trung Quốc đánh
cá, dùng lực lượng hải quân áp đảo tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay chính
quyền Việt Nam Cộng hòa. Tháng 3/1988 hải quân Trung Quốc lại chiếm thêm 6 đảo
đá ở quần đảo Trường Sa đang do CHXHCN Việt Nam kiểm soát, gây thương vong cho
hải quân nước ta. Bắc Kinh coi đó là những thành tích “thu phục lãnh thổ”, thực
ra đó là sự xâm lược trắng trợn lãnh thổ Việt Nam. Từ đó trở đi Trung Quốc tìm
cách ổn định các tranh chấp biên giới trên lục địa, tập trung lực lượng lấn
chiếm lãnh thổ trên biển, gây ra tranh chấp biển đảo với các nước xung
quanh.
Trước
đó, cho đến đầu thập kỷ 1980, hải quân Trung Quốc áp dụng chiến lược “phòng ngự
biển gần” thích hợp với trình độ hải quân của họ; trọng điểm chiến lược và kinh
phí quốc phòng chủ yếu tập trung cho an ninh trên lục địa chứ không phải trên
biển.
Sau
mấy chục năm cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc tiến lên vị trí hàng đầu thế
giới, khiến Bắc Kinh tự cho đã có đủ sức mạnh để thực hiện tham vọng trở thành
cường quốc biển đọ sức được với Mỹ và bành trướng lãnh thổ trên biển. Họ tập
trung phát triển không quân, hải quân, ra sức đóng tàu sân bay và rất nhiều tàu
chiến, tàu ngầm hiện đại, đồng thời xây dựng nhiều căn cứ hải quân mới. Sau khi
hoán cải thành công tàu sân bay đầu tiên từ vỏ tàu sân bay đóng dở dang mua lại
từ Ukraine với giá sắt vụn, hiện nay nhà máy đóng tàu Đại Liên đã đóng được ụ
tàu siêu lớn cỡ 300 nghìn tấn, dài 365 m, rộng 80 m, cao 12,17 m, tương đương
kích thước tàu sân bay. Hải quân Trung Quốc chuyển sang thực hiện chiến lược
“Biển Xanh” nhằm đưa nước này trở thành cường quốc hải quân hàng đầu tại châu Á,
có thể tác chiển ở biển xa.
Nhưng
tham vọng phát triển “quyền lực biển” của Bắc Kinh gặp nhiều khó khăn. Hướng
đông bắc bị bán đảo Triều Tiên án ngữ, hơn nữa bán đảo này luôn luôn ở vào tình
trạng bất ổn. Phần lớn bờ biển của Trung Quốc dọc Đông Hải (vùng biển phía đông
Trung Quốc) đã bị chuỗi đảo Nhật-Đài Loan-Philippines bao vây ngăn chặn, thế
trận này khó lòng có thể phá vỡ vì các quốc gia này đều có liên kết quân sự với
Mỹ.
Bởi
thế từ năm 2007 Bắc Kinh ngày càng quyết đoán tìm mọi cách phát triển “quyền lực
biển” xuống phía nam, tức vùng Biển Đông, tuy nơi này rất xa vùng trung tâm
Trung Quốc. Với dã tâm đó, Bắc Kinh dựng đứng thuyết Trung Quốc có chủ quyền
trên toàn bộ vùng biển nằm trong “Đường 9 đoạn”, tức hầu hết diện tích Biển
Đông, và tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa
(Trung Quốc gọi là Nam Sa) từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc. Bắc Kinh cho
rằng họ có ưu thế lớn ở Biển Đông. Các quốc gia xung quanh Biển Đông đều là tiểu
quốc, lực lượng quân sự cộng lại cũng chưa thể bằng Trung Quốc. Hơn nữa Trung
Quốc có thể dùng sức mạnh kinh tế và thủ đoạn chính trị thâm độc để đe dọa, lôi
kéo, chia rẽ các nước này, ép họ để Bắc Kinh muốn làm gì thì làm. Do đó chiến
lược biển của Bắc Kinh mấy năm nay đều đặc biệt nhấn mạnh vào Biển Đông.
Chiến
lược biển năm 2014: Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc biển
Bắc
Kinh cho rằng tình hình xung quanh Trung Quốc mấy năm qua xuất hiện nhiều vấn đề
bất lợi cho họ: thứ nhất là mâu thuẫn có tính đối kháng giữa Nhật, Ấn Độ với
Trung Quốc tăng lên rõ ràng; thứ hai, Myanmar vốn lệ thuộc Trung Quốc bắt đầu
giảm dần sự lệ thuộc đó; thứ ba, các rắc rối ở Biển Hoa Đông và Biển Đông tăng
lên dần.
Trước
tình hình đó, Trung Quốc đã đưa ra một loạt đối sách, đặc biệt đã xác lập một
chiến lược biển hoàn toàn mới và công bố hàng năm.
Ngày
29/4/2014, tại Bắc Kinh, Viện Nghiên cứu chiến lược phát triển biển (VNCCLPTB,
thuộc Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc) cử hành long trọng nghi thức công bố
“Báo cáo phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014” (China’s Ocean
Development Report 2014) do Viện này tổ chức biên soạn, đồng thời mở cuộc tọa
đàm về bản “Báo cáo” đó. Đây là báo cáo chiến lược biển đầu tiên của ban lãnh
đạo mới Trung Quốc Tập Cận Bình – Lý Khắc Cường. Dự tọa đàm có lãnh đạo các
ngành ngoại giao, quân đội, Cục Hải dương Quốc gia, Viện Khoa học Xã hội, các
trường đại học và rất nhiều đại diện ngành phát thanh truyền hình và nhiều tờ
báo lớn.
Giám
đốc VNCCLPTB Cao Chi Quốc cho biết: các chương mục của “Báo cáo” được sắp xếp
chủ yếu dựa vào sự bố trí chiến lược xây dựng cường quốc biển nói trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội XVIII Đảng CSTQ và các yêu cầu nêu ra trong Báo cáo công
tác năm 2013 của chính phủ, kết hợp sự phát triển công việc về biển, các sự kiện
lớn về biển xảy ra trong năm 2013. So với các năm trước, “Báo cáo” năm nay tăng
thêm phần “Xây dựng cường quốc biển”, có những ý mới, có đột phá, trình bày khá
chi tiết về mục tiêu chiến lược xây dựng cường quốc biển, cung cấp tư liệu chi
tiết cho công chúng tìm hiểu tình hình phát triển sự nghiệp biển của Trung Quốc.
Ngoài ra còn có phần bình luận về một số vấn đề biển nóng sốt và khó khăn được
dư luận quan tâm. Việc biên soạn “Báo cáo” được sự ủng hộ của Cục Hải dương quốc
gia, đích thân Cục trưởng Lưu Tứ Quý viết Lời tựa cho “Báo cáo”.
“Báo
cáo phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014” gồm 7 phần, chia làm 20
chương, độ dày tới hơn nửa triệu chữ.
Phần
I “Hoàn cảnh vĩ mô phát triển biển của Trung Quốc”. Phần II “Tăng cường quản lý
tổng hợp biển”. Phần III “Phát triển kinh tế biển”. Phần IV “Nâng cao năng lực
khai thác tài nguyên biển”. Phần V “Giữ gìn môi trường sinh thái biển”. Phần VI
“Bảo vệ quyền lợi biển quốc gia”. Phần VII “Xây dựng cường quốc biển”. Sáu phần
đầu mỗi phần gồm ba chương, phần VII có hai chương, ngoài ra còn có phần Phụ
lục.
Tại
Tọa đàm, Phó Giám đốc VNCCLPTB Giả Vũ đã giới thiệu nội dung chính của “Báo cáo”
và nhấn mạnh những điểm mới. Ông nói các vùng biển xung quanh Trung Quốc năm
2013 tiếp tục thể hiện tình hình phức tạp vừa hợp tác vừa đấu tranh, các tranh
chấp vẫn tồn tại và có nguy hiểm dẫn đến xung đột cục bộ. Vấn đề chính gồm tranh
chấp Trung Quốc – Nhật tại đảo Điếu Ngư (Nhật gọi là Senkaku) và ảnh hưởng lâu
dài, sâu sắc của việc Mỹ điều chỉnh chiến lược ở châu Á-Thái Bình Dương. “Báo
cáo” nói Trung Quốc đã giành được những tiến triển rõ ràng về mặt bảo vệ quyền
lợi biển, thực hiện đột phá về bảo vệ chủ quyền đảo Điếu Ngư, thực hiện kiểm
soát hiệu quả ở bãi Hoàng Nham (còn gọi là bãi cạn Scarborough, gần
Philippines). Trên vấn đề bảo vệ chủ quyền hải đảo và an ninh biển, Trung Quốc
biểu thị rõ ràng thái độ kiên quyết không từ bỏ quyền lợi chính đáng, lại càng
không hy sinh lợi ích cốt lõi của quốc gia. Sau khi chỉnh đốn đội ngũ chấp pháp
trên biển, sẽ dùng danh nghĩa Cục Cảnh sát biển Trung Quốc để tiếp tục triển
khai các chuyến tuần tiễu định kỳ tại các vùng biển Trung Quốc quản hạt, tiếp
tục tiến hành các hoạt động chấp pháp bảo vệ quyền lợi đối với đảo Điếu Ngư và
Hoàng Nham.
Đồng
thời Trung Quốc không ngừng tăng quy mô kinh tế biển, ra sức xây dựng hệ thống
công nghiệp biển hiện đại. Tốc độ tăng trưởng kinh tế biển Trung Quốc hai năm
nay bắt đầu chậm lại, tập trung vào việc nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên
biển và sức cạnh tranh, đẩy mạnh điều chỉnh cơ cấu và chuyển hình nâng cấp.
Xây
dựng cường quốc biển mang đặc sắc Trung Quốc là phần mới tăng thêm trong “Báo
cáo” 2014. Nội dung xây dựng cường quốc biển gồm tư duy lý luận xây dựng cường
quốc biển và biện pháp xây dựng cường quốc biển đặc sắc Trung Quốc. Chỉ có xây
dựng được cường quốc biển thì mới có khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc
gia, các quyền lợi trên biển và an ninh nhà nước, mới có bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế và xã hội. “Báo cáo” nhấn mạnh, Trung Quốc kiên trì đi con đường
hòa bình xây dựng cường quốc biển chứ không phải con đường bá quyền biển, kiên
trì con đường phát triển dựa biển làm đất nước giàu mạnh, người và biển hòa hợp,
hợp tác cùng thắng, thăm dò mô hình mới hòa bình xây dựng cường quốc biển.
Khi
bàn về cái mới trong chiến lược biển của Bắc Kinh, ông Kim Sán Vinh, Phó Giám
đốc Học viện Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc nói: ”Chiến lược
biển trước đây là ưu tiên giữ ổn định, chủ yếu là gác lại tranh chấp.” Nhưng từ
sau vụ đảo Hoàng Nham, chiến lược biển của Trung Quốc thay đổi theo hướng “tích
cực” hơn, “Anh gây sự thì tôi sẽ phản kích.” — ông nói.
Nói
toạc ra, điểm mới trong chiến lược biển của Trung Quốc hiện nay là chủ động gây
hấn, dùng sức mạnh để giải quyết mọi tranh chấp biển đảo với các nước xung
quanh, chứ không còn “giấu mình chờ thời”, “giữ ổn định”, “gác lại tranh chấp”
như trước đây.
Do
theo đuổi chiến lược biển ngày càng chủ động gây mất ổn định, đòi mở rộng chủ
quyền trên biển Thái Bình Dương, Trung Quốc đang chuốc lấy sự phản đối giận dữ
của các nước liên quan.
Tại
Đông Hải, việc Bắc Kinh gây căng thẳng với Nhật trên vấn đề đảo Điếu Ngư/
Senkaku ngày càng làm cho họ bế tắc. Đảo này trên thực tế do Nhật quản lý nhưng
Trung Quốc lại nói đó là lãnh thổ của họ. Sau khi Nhật quốc hữu hóa đảo, Bắc
Kinh ra sức phản đối, cho máy bay tàu chiến thường xuyên ra đây tuần tiễu, có
lúc suýt xảy ra va chạm với máy bay tàu chiến tuần tiễu của Nhật. Thái độ hung
hăng ấy vấp phải sự chống trả của chính phủ Nhật do Thủ tướng Abe lãnh đạo. Nhân
dịp này, Abe đưa ra chủ trương tăng ngân sách quốc phòng, dọa sửa Hiến pháp hòa
bình 1946 để Nhật có thể có một quân đội thực sự chứ không phải chỉ là “Lực
lượng tự vệ” như cũ. Do thái độ quyết liệt của Nhật và cũng do Mỹ – Nhật có hiệp
ước phòng thủ chung nên thực ra trên vấn đề Điếu Ngư/ Senkaku, Trung Quốc rất
khó có thể làm gì mạnh tay hơn.
Nhưng
tại Biển Đông, lợi dụng sự chia rẽ của ASEAN, sự bàng quan của không ít quốc gia
trên thế giới, Trung Quốc đang ra sức lấn tới. Gần đây nhất họ ngang ngược hạ
đặt giàn khoan HD 981 ngay trên vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam, bất
chấp sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và quốc tế, đơn phương khai thác tài
nguyên biển, mặt khác ra sức bịa đặt vu cáo Việt Nam. Nếu không buộc Trung Quốc
rút giàn khoan 981 thì rất có thể sau đây Bắc Kinh sẽ tiếp tục lấn tới, đưa giàn
khoan đi khắp đường 9 đoạn.
Giáo
sư Huge White tại Đại học Quốc gia Australia nhận định Bắc Kinh muốn thử thách
quyết tâm “xoay trục” của Mỹ; họ tin rằng nếu xảy ra xung đột thì Mỹ sẽ bỏ mặc
các quốc gia đồng minh của mình và nhượng bộ Trung Quốc. Theo White, thực ra
chiến lược “xoay trục” của Mỹ được xây dựng trên giả định là Bắc Kinh không muốn
đối đầu với Mỹ vì nếu đối đầu thì Mỹ nắm chắc phần thắng. Như vậy rõ ràng Trung
Quốc đã thiếu tính toán và do đó họ đang chơi một trò chơi nguy hiểm — hai bên
đều tin rằng đối phương sẽ nhượng bộ mình — sự ngộ nhận đó sẽ dẫn đến tình hình
ngày càng căng thẳng và có thể đem lại thảm họa thật sự cho châu Á.
Tạp
chí The National Interest của Mỹ nhận xét: việc đưa giàn khoan 981 vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam là một bước leo thang gây hấn của Trung Quốc, cho
thấy Bắc Kinh đã có 4 sai lầm chiến lược:
Động
thái này đã vượt quá giới hạn chịu đựng của Việt Nam, vì thế Việt Nam đã phản
ứng quyết liệt, buộc phải tăng cường quan hệ an ninh với các cường quốc khác,
thí dụ Mỹ;
Hành
động của Trung Quốc vi phạm các quy định trong Tuyên bố về ứng xử của các bên
trên biển Đông (DOC), làm các nước trong khu vực càng nghi ngờ ý đồ thực sự của
Bắc Kinh, có thể gây ra một làn sóng dân tộc chủ nghĩa bài Trung Quốc tại ASEAN.
Việc Indonesia gần đây thay đổi lập trường đối với Trung Quốc sẽ thực sự là một
trở ngại cho Bắc Kinh.
Bằng
việc cử tàu hải quân bảo vệ giàn khoan 981, Trung Quốc đã để mất cái cớ cho chủ
trương hiện đại hóa quân sự của họ, mà trước đây họ nói chỉ có tính chất phòng
thủ.
Hành
động của Trung Quốc có thể gây bất ổn cho an ninh trong khu vực, tạo ra trở ngại
cho các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tái cơ cấu nền kinh tế và duy trì tăng trưởng
bền vững, giữ ổn định chính trị quốc nội trong khi các phong trào ly khai ở Tây
Tạng và Tân Cương đang dâng cao.
Điều
đáng quan ngại là do chính sách tuyên truyền lừa dối bịp bợm kéo dài nhiều năm
của Bắc Kinh, dư luận công chúng Trung Quốc đã mất tỉnh táo, hùa theo luận điệu
cho rằng Trung Quốc “có chủ quyền lịch sử không thể chối cãi trên tất cả các
quần đảo ở Nam Hải” và do đó họ dứt khoát phải đòi lại các đảo này từ tay
Philippines, Việt Nam, Malaysia mà Bắc Kinh gọi là “các nước xâm chiếm”.
Sau
khi Nga sáp nhập thành công Crimea của Ukraine vào Liên bang Nga, không ít người
Trung Quốc nhiễm tâm lý bái phục Putin nghĩ rằng nước họ có thể làm như vậy đối
với các tiểu quốc ở xung quanh Biển Đông.
Trong
bài “Tư duy chiến lược đến từ vụ Crimea”, một blog của cái gọi là “Liên minh thu
phục lãnh thổ” trắng trợn kêu gọi người Trung Quốc cần phải suy nghĩ theo 4
hướng sau:
Bản
chất chính trị quốc tế hiện nay là chính trị cường quyền, chính trị nước lớn;
yếu tố quyết định chủ quyền, an ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia không phải
là chính nghĩa, dân chủ, nhân quyền, luật pháp mà là sức mạnh quốc gia.
Lợi
ích quốc gia là tiêu chuẩn duy nhất quyết định đường lối chính sách của một
nước, khi xảy ra việc có liên quan tới lợi ích cốt lõi thì phải quả quyết hành
động, cướp thời cơ, dám giành lợi ích sớm trước kẻ khác, cũng không ngại trả
giá.
Phải
nhận thức được rằng các lãnh thổ trọng yếu (yếu địa) sẽ quyết định sự thành bại
của quốc gia. Nam Hải (Biển Đông) là yếu địa của Trung Quốc, cần bằng mọi giá
kiểm soát được Nam Hải (Biển Đông), nếu không thì Trung Quốc sẽ thua trong keo
vật với Mỹ.
Sức
mạnh quân đội quyết định sự được hay mất lãnh thổ, vì thế Trung Quốc nhất thiết
phải đóng quân ở Nam Sa (Trường Sa).
Có
thể thấy là với việc theo đuổi chiến lược trở thành cường quốc biển nói trên,
Trung Quốc ngày càng tự bóc trần bộ mặt hòa bình hữu hảo, lộ rõ bản chất hiếu
chiến và tham vọng chiếm trọn Biển Đông, đe dọa hòa bình và an ninh của các nước
ven biển và do đó sẽ bị nhân dân các nước Đông Nam Á và nhân dân yêu chuộng hòa
bình thế giới phản đối ngày càng quyết liệt.
Nguyễn
Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
————-
Tài
liệu tham khảo:
1
– http://www.cima.gov.cn 《中国海洋发展报告(2014)》首发座谈会
2014-04-29
2
– http://epaper.oceanol.com 国家海洋局海洋发展战略研究所副所长贾宇
解读《中国海洋发展报告(2014)》
3- http://news.k618.cn/travel/201404/t20140429_5113723.html 《中国海洋发展报告(2014)》首提海洋强国理论思考.
-
See more at:
http://nghiencuuquocte.net/2015/03/17/trung-quoc-chien-luoc-cuong-quoc-bien/#sthash.AdCpLLa5.dpuf
Bài
đăng trên tạp chí "Nghiên cứu Quốc tế"
Tác
giả: Nguyễn Hải Hoành
Quá
trình chuyển biến nhận thức về chiến lược biển của người Trung Quốc
Thực
tế lịch sử cho thấy Trung Quốc tuy là nước lớn nhưng trong thời kỳ cận đại lại
yếu hèn, bị các cường quốc bắt nạt, xâm chiếm. Đầu tiên, năm 1840, hạm đội Anh
chiếm Quảng Châu, chính quyền nhà Thanh buộc phải ký Điều ước Nam Kinh nhục nhã;
cuối cùng, năm 1937 phát xít Nhật tấn công Trung Quốc và dần dần chiếm đóng hầu
hết nước này. Đại tá, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc Lưu Minh Phúc nhận
xét: Căn nguyên của tất cả các thất bại đó là do “Trung Quốc lạc hậu về chiến
lược”. Đồng thời ông đánh giá “Mỹ là nước lớn về chiến lược…, người Mỹ chưa từng
có những sai sót chiến lược gây ra sự tụt lùi của đất nước.”
Chiến
lược quyết định phương hướng và tương lai của một quốc gia, dân tộc. Quốc gia có
chiến lược đúng đắn thì có thể nhanh chóng phát triển và đạt được mục tiêu nước
mạnh dân giàu, nước nhỏ cũng có thể trở thành nước mạnh. Chiến lược sai thì nước
lớn cũng có thể suy yếu, bị các nước khác vượt qua. Sai lầm chiến lược là sai
lầm chết người. Một chiến lược đúng đắn là phải biết phát huy các thế mạnh của
quốc gia, dân tộc, trong đó có thế mạnh về hoàn cảnh thiên nhiên, đặc biệt là
biển.
Biển
là cái nôi sinh ra sự sống; trái đất có biển nên mới có các loài sinh vật, có
loài người. Biển tiềm ẩn vô vàn tài nguyên quý giá, từ tài nguyên năng lượng,
khoáng chất cho tới thực phẩm … Biển cung cấp cho nhân loại những con đường đi
tới khắp nơi trên trái đất; vận tải đường biển là phương tiện vận tải rẻ nhất,
chở được nhiều nhất, tiện lợi nhất. Biển là quà tặng vô giá của thiên nhiên, là
thế mạnh của các quốc gia giáp biển.
Trung
Quốc rộng 9,6 triệu km2, chiều dài bờ biển trên 10 nghìn km, lẽ ra họ phải biết
tận dụng sự ưu đãi ấy. Nhưng dân tộc này có truyền thống đại lục, nền văn minh
nông nghiệp đầu tiên của họ phát triển rực rỡ trên lưu vực Hoàng Hà không có
biển. Tự hào với nền văn minh đó, họ tự cho mình là trung tâm tinh hoa của thiên
hạ (“Trung Hoa”), coi nhẹ biển, không dám vượt biển xa, không đi khắp thế giới
để mở tầm mắt, dẫn đến truyền thống tư duy bảo thủ khép kín.
Truyền
thống đại lục khác với truyền thống biển của phương tây. Vùng ba biển — Địa
Trung Hải, biển Adriatic và biển Aegean — tạo hoàn cảnh địa lý sinh ra nền văn
minh phương Tây rực rỡ. Nền văn minh ấy về sau được phát triển tiếp, chủ yếu
theo tuyến bờ biển phía tây đại lục châu Âu, bởi các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Hà Lan, Anh. Văn minh phương tây trở thành dòng chính của văn minh thế
giới, văn minh Trung Hoa tụt xuống địa vị thứ yếu.
Thực
ra vào thế kỷ XV, khi lịch sử thế giới chuyển từ thời đại lục địa sang thời đại
biển thì trước cả Vasco da Gama và Christopher Columbus, Trung Quốc đã có nhà
hàng hải lớn Trịnh Hòa. Thời gian 1405-1433 Trịnh Hòa từng 7 lần dẫn hạm đội lớn
đi ra biển xa, tới tận phía đông châu Phi. Nhưng sau khi ông ốm chết (1433),
triều đình nhà Minh đã đình chỉ việc đưa thuyền nhà nước đi biển xa, phá hết các
xưởng đóng thuyền, hủy mọi tài liệu ông sưu tầm được trong các chuyến đi biển.
Tư duy đại lục thiển cận ấy đã đem lại hậu quả là từ sau năm 1840, Trung Quốc
ngày một thua to trước sự tấn công từ phía biển của nước ngoài. Năm 1894, toàn
bộ hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh bị tiêu diệt. Trung Quốc từ một nước độc lập
trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa, bị các đế quốc phương Tây và
Nhật Bản xâu xé. Trong khi đó nước Mỹ tuy sinh sau đẻ muộn nhưng nhờ có những
nhà chiến lược biển vĩ đại như Alfred Mahan nên đã tạo dựng được một “sức mạnh
biển” có tính toàn cầu đến bây giờ vẫn mạnh nhất thế giới, bảo đảm nước Mỹ có
địa vị siêu cường duy nhất lãnh đạo toàn thế giới.
Truyền
thống đại lục thâm căn cố đế đã làm cho người Trung Quốc mãi đến giữa thập niên
70 thế kỷ XX mới bắt đầu thực sự coi trọng chiến lược biển. Thời kỳ đó, Mỹ rút
quân ra khỏi Việt Nam, tạo ra tình trạng “khoảng trống” về quyền lực biển ở Biển
Đông; quan hệ Trung Quốc-Mỹ bắt đầu được cải thiện dần; Mỹ rút quân ra khỏi eo
biển Đài Loan; các xung đột trên biển giữa Trung Quốc với Đài Loan cũng chấm
dứt. Những điều kiện lịch sử đó tạo ra thời cơ lớn cho Bắc Kinh mở rộng quyền
lực biển của họ.
Chớp
thời cơ chính quyền Sài Gòn không còn được Mỹ hậu thuẫn, tháng 1/1974, tướng Hứa
Thế Hữu – Tư lệnh Quân khu Quảng Châu – mượn cớ hộ tống ngư dân Trung Quốc đánh
cá, dùng lực lượng hải quân áp đảo tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay chính
quyền Việt Nam Cộng hòa. Tháng 3/1988 hải quân Trung Quốc lại chiếm thêm 6 đảo
đá ở quần đảo Trường Sa đang do CHXHCN Việt Nam kiểm soát, gây thương vong cho
hải quân nước ta. Bắc Kinh coi đó là những thành tích “thu phục lãnh thổ”, thực
ra đó là sự xâm lược trắng trợn lãnh thổ Việt Nam. Từ đó trở đi Trung Quốc tìm
cách ổn định các tranh chấp biên giới trên lục địa, tập trung lực lượng lấn
chiếm lãnh thổ trên biển, gây ra tranh chấp biển đảo với các nước xung
quanh.
Trước
đó, cho đến đầu thập kỷ 1980, hải quân Trung Quốc áp dụng chiến lược “phòng ngự
biển gần” thích hợp với trình độ hải quân của họ; trọng điểm chiến lược và kinh
phí quốc phòng chủ yếu tập trung cho an ninh trên lục địa chứ không phải trên
biển.
Sau
mấy chục năm cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc tiến lên vị trí hàng đầu thế
giới, khiến Bắc Kinh tự cho đã có đủ sức mạnh để thực hiện tham vọng trở thành
cường quốc biển đọ sức được với Mỹ và bành trướng lãnh thổ trên biển. Họ tập
trung phát triển không quân, hải quân, ra sức đóng tàu sân bay và rất nhiều tàu
chiến, tàu ngầm hiện đại, đồng thời xây dựng nhiều căn cứ hải quân mới. Sau khi
hoán cải thành công tàu sân bay đầu tiên từ vỏ tàu sân bay đóng dở dang mua lại
từ Ukraine với giá sắt vụn, hiện nay nhà máy đóng tàu Đại Liên đã đóng được ụ
tàu siêu lớn cỡ 300 nghìn tấn, dài 365 m, rộng 80 m, cao 12,17 m, tương đương
kích thước tàu sân bay. Hải quân Trung Quốc chuyển sang thực hiện chiến lược
“Biển Xanh” nhằm đưa nước này trở thành cường quốc hải quân hàng đầu tại châu Á,
có thể tác chiển ở biển xa.
Nhưng
tham vọng phát triển “quyền lực biển” của Bắc Kinh gặp nhiều khó khăn. Hướng
đông bắc bị bán đảo Triều Tiên án ngữ, hơn nữa bán đảo này luôn luôn ở vào tình
trạng bất ổn. Phần lớn bờ biển của Trung Quốc dọc Đông Hải (vùng biển phía đông
Trung Quốc) đã bị chuỗi đảo Nhật-Đài Loan-Philippines bao vây ngăn chặn, thế
trận này khó lòng có thể phá vỡ vì các quốc gia này đều có liên kết quân sự với
Mỹ.
Bởi
thế từ năm 2007 Bắc Kinh ngày càng quyết đoán tìm mọi cách phát triển “quyền lực
biển” xuống phía nam, tức vùng Biển Đông, tuy nơi này rất xa vùng trung tâm
Trung Quốc. Với dã tâm đó, Bắc Kinh dựng đứng thuyết Trung Quốc có chủ quyền
trên toàn bộ vùng biển nằm trong “Đường 9 đoạn”, tức hầu hết diện tích Biển
Đông, và tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa
(Trung Quốc gọi là Nam Sa) từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc. Bắc Kinh cho
rằng họ có ưu thế lớn ở Biển Đông. Các quốc gia xung quanh Biển Đông đều là tiểu
quốc, lực lượng quân sự cộng lại cũng chưa thể bằng Trung Quốc. Hơn nữa Trung
Quốc có thể dùng sức mạnh kinh tế và thủ đoạn chính trị thâm độc để đe dọa, lôi
kéo, chia rẽ các nước này, ép họ để Bắc Kinh muốn làm gì thì làm. Do đó chiến
lược biển của Bắc Kinh mấy năm nay đều đặc biệt nhấn mạnh vào Biển Đông.
Chiến
lược biển năm 2014: Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc biển
Bắc
Kinh cho rằng tình hình xung quanh Trung Quốc mấy năm qua xuất hiện nhiều vấn đề
bất lợi cho họ: thứ nhất là mâu thuẫn có tính đối kháng giữa Nhật, Ấn Độ với
Trung Quốc tăng lên rõ ràng; thứ hai, Myanmar vốn lệ thuộc Trung Quốc bắt đầu
giảm dần sự lệ thuộc đó; thứ ba, các rắc rối ở Biển Hoa Đông và Biển Đông tăng
lên dần.
Trước
tình hình đó, Trung Quốc đã đưa ra một loạt đối sách, đặc biệt đã xác lập một
chiến lược biển hoàn toàn mới và công bố hàng năm.
Ngày
29/4/2014, tại Bắc Kinh, Viện Nghiên cứu chiến lược phát triển biển (VNCCLPTB,
thuộc Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc) cử hành long trọng nghi thức công bố
“Báo cáo phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014” (China’s Ocean
Development Report 2014) do Viện này tổ chức biên soạn, đồng thời mở cuộc tọa
đàm về bản “Báo cáo” đó. Đây là báo cáo chiến lược biển đầu tiên của ban lãnh
đạo mới Trung Quốc Tập Cận Bình – Lý Khắc Cường. Dự tọa đàm có lãnh đạo các
ngành ngoại giao, quân đội, Cục Hải dương Quốc gia, Viện Khoa học Xã hội, các
trường đại học và rất nhiều đại diện ngành phát thanh truyền hình và nhiều tờ
báo lớn.
Giám
đốc VNCCLPTB Cao Chi Quốc cho biết: các chương mục của “Báo cáo” được sắp xếp
chủ yếu dựa vào sự bố trí chiến lược xây dựng cường quốc biển nói trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội XVIII Đảng CSTQ và các yêu cầu nêu ra trong Báo cáo công
tác năm 2013 của chính phủ, kết hợp sự phát triển công việc về biển, các sự kiện
lớn về biển xảy ra trong năm 2013. So với các năm trước, “Báo cáo” năm nay tăng
thêm phần “Xây dựng cường quốc biển”, có những ý mới, có đột phá, trình bày khá
chi tiết về mục tiêu chiến lược xây dựng cường quốc biển, cung cấp tư liệu chi
tiết cho công chúng tìm hiểu tình hình phát triển sự nghiệp biển của Trung Quốc.
Ngoài ra còn có phần bình luận về một số vấn đề biển nóng sốt và khó khăn được
dư luận quan tâm. Việc biên soạn “Báo cáo” được sự ủng hộ của Cục Hải dương quốc
gia, đích thân Cục trưởng Lưu Tứ Quý viết Lời tựa cho “Báo cáo”.
“Báo
cáo phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014” gồm 7 phần, chia làm 20
chương, độ dày tới hơn nửa triệu chữ.
Phần
I “Hoàn cảnh vĩ mô phát triển biển của Trung Quốc”. Phần II “Tăng cường quản lý
tổng hợp biển”. Phần III “Phát triển kinh tế biển”. Phần IV “Nâng cao năng lực
khai thác tài nguyên biển”. Phần V “Giữ gìn môi trường sinh thái biển”. Phần VI
“Bảo vệ quyền lợi biển quốc gia”. Phần VII “Xây dựng cường quốc biển”. Sáu phần
đầu mỗi phần gồm ba chương, phần VII có hai chương, ngoài ra còn có phần Phụ
lục.
Tại
Tọa đàm, Phó Giám đốc VNCCLPTB Giả Vũ đã giới thiệu nội dung chính của “Báo cáo”
và nhấn mạnh những điểm mới. Ông nói các vùng biển xung quanh Trung Quốc năm
2013 tiếp tục thể hiện tình hình phức tạp vừa hợp tác vừa đấu tranh, các tranh
chấp vẫn tồn tại và có nguy hiểm dẫn đến xung đột cục bộ. Vấn đề chính gồm tranh
chấp Trung Quốc – Nhật tại đảo Điếu Ngư (Nhật gọi là Senkaku) và ảnh hưởng lâu
dài, sâu sắc của việc Mỹ điều chỉnh chiến lược ở châu Á-Thái Bình Dương. “Báo
cáo” nói Trung Quốc đã giành được những tiến triển rõ ràng về mặt bảo vệ quyền
lợi biển, thực hiện đột phá về bảo vệ chủ quyền đảo Điếu Ngư, thực hiện kiểm
soát hiệu quả ở bãi Hoàng Nham (còn gọi là bãi cạn Scarborough, gần
Philippines). Trên vấn đề bảo vệ chủ quyền hải đảo và an ninh biển, Trung Quốc
biểu thị rõ ràng thái độ kiên quyết không từ bỏ quyền lợi chính đáng, lại càng
không hy sinh lợi ích cốt lõi của quốc gia. Sau khi chỉnh đốn đội ngũ chấp pháp
trên biển, sẽ dùng danh nghĩa Cục Cảnh sát biển Trung Quốc để tiếp tục triển
khai các chuyến tuần tiễu định kỳ tại các vùng biển Trung Quốc quản hạt, tiếp
tục tiến hành các hoạt động chấp pháp bảo vệ quyền lợi đối với đảo Điếu Ngư và
Hoàng Nham.
Đồng
thời Trung Quốc không ngừng tăng quy mô kinh tế biển, ra sức xây dựng hệ thống
công nghiệp biển hiện đại. Tốc độ tăng trưởng kinh tế biển Trung Quốc hai năm
nay bắt đầu chậm lại, tập trung vào việc nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên
biển và sức cạnh tranh, đẩy mạnh điều chỉnh cơ cấu và chuyển hình nâng cấp.
Xây
dựng cường quốc biển mang đặc sắc Trung Quốc là phần mới tăng thêm trong “Báo
cáo” 2014. Nội dung xây dựng cường quốc biển gồm tư duy lý luận xây dựng cường
quốc biển và biện pháp xây dựng cường quốc biển đặc sắc Trung Quốc. Chỉ có xây
dựng được cường quốc biển thì mới có khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc
gia, các quyền lợi trên biển và an ninh nhà nước, mới có bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế và xã hội. “Báo cáo” nhấn mạnh, Trung Quốc kiên trì đi con đường
hòa bình xây dựng cường quốc biển chứ không phải con đường bá quyền biển, kiên
trì con đường phát triển dựa biển làm đất nước giàu mạnh, người và biển hòa hợp,
hợp tác cùng thắng, thăm dò mô hình mới hòa bình xây dựng cường quốc biển.
Khi
bàn về cái mới trong chiến lược biển của Bắc Kinh, ông Kim Sán Vinh, Phó Giám
đốc Học viện Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc nói: ”Chiến lược
biển trước đây là ưu tiên giữ ổn định, chủ yếu là gác lại tranh chấp.” Nhưng từ
sau vụ đảo Hoàng Nham, chiến lược biển của Trung Quốc thay đổi theo hướng “tích
cực” hơn, “Anh gây sự thì tôi sẽ phản kích.” — ông nói.
Nói
toạc ra, điểm mới trong chiến lược biển của Trung Quốc hiện nay là chủ động gây
hấn, dùng sức mạnh để giải quyết mọi tranh chấp biển đảo với các nước xung
quanh, chứ không còn “giấu mình chờ thời”, “giữ ổn định”, “gác lại tranh chấp”
như trước đây.
Do
theo đuổi chiến lược biển ngày càng chủ động gây mất ổn định, đòi mở rộng chủ
quyền trên biển Thái Bình Dương, Trung Quốc đang chuốc lấy sự phản đối giận dữ
của các nước liên quan.
Tại
Đông Hải, việc Bắc Kinh gây căng thẳng với Nhật trên vấn đề đảo Điếu Ngư/
Senkaku ngày càng làm cho họ bế tắc. Đảo này trên thực tế do Nhật quản lý nhưng
Trung Quốc lại nói đó là lãnh thổ của họ. Sau khi Nhật quốc hữu hóa đảo, Bắc
Kinh ra sức phản đối, cho máy bay tàu chiến thường xuyên ra đây tuần tiễu, có
lúc suýt xảy ra va chạm với máy bay tàu chiến tuần tiễu của Nhật. Thái độ hung
hăng ấy vấp phải sự chống trả của chính phủ Nhật do Thủ tướng Abe lãnh đạo. Nhân
dịp này, Abe đưa ra chủ trương tăng ngân sách quốc phòng, dọa sửa Hiến pháp hòa
bình 1946 để Nhật có thể có một quân đội thực sự chứ không phải chỉ là “Lực
lượng tự vệ” như cũ. Do thái độ quyết liệt của Nhật và cũng do Mỹ – Nhật có hiệp
ước phòng thủ chung nên thực ra trên vấn đề Điếu Ngư/ Senkaku, Trung Quốc rất
khó có thể làm gì mạnh tay hơn.
Nhưng
tại Biển Đông, lợi dụng sự chia rẽ của ASEAN, sự bàng quan của không ít quốc gia
trên thế giới, Trung Quốc đang ra sức lấn tới. Gần đây nhất họ ngang ngược hạ
đặt giàn khoan HD 981 ngay trên vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam, bất
chấp sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và quốc tế, đơn phương khai thác tài
nguyên biển, mặt khác ra sức bịa đặt vu cáo Việt Nam. Nếu không buộc Trung Quốc
rút giàn khoan 981 thì rất có thể sau đây Bắc Kinh sẽ tiếp tục lấn tới, đưa giàn
khoan đi khắp đường 9 đoạn.
Giáo
sư Huge White tại Đại học Quốc gia Australia nhận định Bắc Kinh muốn thử thách
quyết tâm “xoay trục” của Mỹ; họ tin rằng nếu xảy ra xung đột thì Mỹ sẽ bỏ mặc
các quốc gia đồng minh của mình và nhượng bộ Trung Quốc. Theo White, thực ra
chiến lược “xoay trục” của Mỹ được xây dựng trên giả định là Bắc Kinh không muốn
đối đầu với Mỹ vì nếu đối đầu thì Mỹ nắm chắc phần thắng. Như vậy rõ ràng Trung
Quốc đã thiếu tính toán và do đó họ đang chơi một trò chơi nguy hiểm — hai bên
đều tin rằng đối phương sẽ nhượng bộ mình — sự ngộ nhận đó sẽ dẫn đến tình hình
ngày càng căng thẳng và có thể đem lại thảm họa thật sự cho châu Á.
Tạp
chí The National Interest của Mỹ nhận xét: việc đưa giàn khoan 981 vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam là một bước leo thang gây hấn của Trung Quốc, cho
thấy Bắc Kinh đã có 4 sai lầm chiến lược:
Động
thái này đã vượt quá giới hạn chịu đựng của Việt Nam, vì thế Việt Nam đã phản
ứng quyết liệt, buộc phải tăng cường quan hệ an ninh với các cường quốc khác,
thí dụ Mỹ;
Hành
động của Trung Quốc vi phạm các quy định trong Tuyên bố về ứng xử của các bên
trên biển Đông (DOC), làm các nước trong khu vực càng nghi ngờ ý đồ thực sự của
Bắc Kinh, có thể gây ra một làn sóng dân tộc chủ nghĩa bài Trung Quốc tại ASEAN.
Việc Indonesia gần đây thay đổi lập trường đối với Trung Quốc sẽ thực sự là một
trở ngại cho Bắc Kinh.
Bằng
việc cử tàu hải quân bảo vệ giàn khoan 981, Trung Quốc đã để mất cái cớ cho chủ
trương hiện đại hóa quân sự của họ, mà trước đây họ nói chỉ có tính chất phòng
thủ.
Hành
động của Trung Quốc có thể gây bất ổn cho an ninh trong khu vực, tạo ra trở ngại
cho các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tái cơ cấu nền kinh tế và duy trì tăng trưởng
bền vững, giữ ổn định chính trị quốc nội trong khi các phong trào ly khai ở Tây
Tạng và Tân Cương đang dâng cao.
Điều
đáng quan ngại là do chính sách tuyên truyền lừa dối bịp bợm kéo dài nhiều năm
của Bắc Kinh, dư luận công chúng Trung Quốc đã mất tỉnh táo, hùa theo luận điệu
cho rằng Trung Quốc “có chủ quyền lịch sử không thể chối cãi trên tất cả các
quần đảo ở Nam Hải” và do đó họ dứt khoát phải đòi lại các đảo này từ tay
Philippines, Việt Nam, Malaysia mà Bắc Kinh gọi là “các nước xâm chiếm”.
Sau
khi Nga sáp nhập thành công Crimea của Ukraine vào Liên bang Nga, không ít người
Trung Quốc nhiễm tâm lý bái phục Putin nghĩ rằng nước họ có thể làm như vậy đối
với các tiểu quốc ở xung quanh Biển Đông.
Trong
bài “Tư duy chiến lược đến từ vụ Crimea”, một blog của cái gọi là “Liên minh thu
phục lãnh thổ” trắng trợn kêu gọi người Trung Quốc cần phải suy nghĩ theo 4
hướng sau:
Bản
chất chính trị quốc tế hiện nay là chính trị cường quyền, chính trị nước lớn;
yếu tố quyết định chủ quyền, an ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia không phải
là chính nghĩa, dân chủ, nhân quyền, luật pháp mà là sức mạnh quốc gia.
Lợi
ích quốc gia là tiêu chuẩn duy nhất quyết định đường lối chính sách của một
nước, khi xảy ra việc có liên quan tới lợi ích cốt lõi thì phải quả quyết hành
động, cướp thời cơ, dám giành lợi ích sớm trước kẻ khác, cũng không ngại trả
giá.
Phải
nhận thức được rằng các lãnh thổ trọng yếu (yếu địa) sẽ quyết định sự thành bại
của quốc gia. Nam Hải (Biển Đông) là yếu địa của Trung Quốc, cần bằng mọi giá
kiểm soát được Nam Hải (Biển Đông), nếu không thì Trung Quốc sẽ thua trong keo
vật với Mỹ.
Sức
mạnh quân đội quyết định sự được hay mất lãnh thổ, vì thế Trung Quốc nhất thiết
phải đóng quân ở Nam Sa (Trường Sa).
Có
thể thấy là với việc theo đuổi chiến lược trở thành cường quốc biển nói trên,
Trung Quốc ngày càng tự bóc trần bộ mặt hòa bình hữu hảo, lộ rõ bản chất hiếu
chiến và tham vọng chiếm trọn Biển Đông, đe dọa hòa bình và an ninh của các nước
ven biển và do đó sẽ bị nhân dân các nước Đông Nam Á và nhân dân yêu chuộng hòa
bình thế giới phản đối ngày càng quyết liệt.
Nguyễn
Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
————-
Tài
liệu tham khảo:
1
– http://www.cima.gov.cn 《中国海洋发展报告(2014)》首发座谈会
2014-04-29
2
– http://epaper.oceanol.com 国家海洋局海洋发展战略研究所副所长贾宇
解读《中国海洋发展报告(2014)》
3- http://news.k618.cn/travel/201404/t20140429_5113723.html 《中国海洋发展报告(2014)》首提海洋强国理论思考.
-
See more at:
http://nghiencuuquocte.net/2015/03/17/trung-quoc-chien-luoc-cuong-quoc-bien/#sthash.AdCpLLa5.dpuf