Archive for 2016

Comments Off

Hội nghị Vinatest 2016


.

Sáng thứ bảy, mình cùng Đỗ Hùng Chiến thay mặt Hội Đóng Tàu đi dự Hội nghi Vinatest 2016. Trên FB mình nói đùa  Có cái gì mà không phải tét , phải kiểm mà không cần kiểm , chỉ cần có cái "dzai" /giấy .Lần lượt các hình : Bà Thư chủ tịch Hội mở đầu ; Nguyên Tổng Cục trưởng Vinatest Nguyễn Hữu Thiện và giám đôc Thí nghiệm sinh học nhiệt đới Sơn; TS Pham Ngọc Tuấn DHQG SG giới thiệu phòng thí nghiệm quốc gia về hệ thống .Những thông tin về các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia khá lý thú (đó là chưa tính đền Bể thử tàu Quốc gia đang xây dựng ?) vì nhà nước đầu tư khá đậm về người lẫn thiết bị và liệu các doanh nghiệp hàng hải quốc doanh lẫn tư doanh có thể vươn lên nhờ đứng trên vai những người khổng lồ này ? Tại Hội nghị này , gặp được hai điều lý thú : Ông Phùng , khuyên Hội Đóng Tàu nên tham gia Hội Doanh nghiệp , thuộc VCCI và gặp ông Phó Tổng của Quatest 03
áng thứ bảy, mình cùng Đỗ Hùng Chiến thay mặt Hội Đóng Tàu đi dự Hội nghi Vinatest 2016. Trên FB mình nói đùa  Có cái gì mà không phải tét , phải kiểm mà không cần kiểm , chỉ cần có cái "dzai" /giấy .Lần lượt các hình : Bà Thư chủ tịch Hội mở đầu ; Nguyên Tổng Cục trưởng Vinatest Nguyễn Hữu Thiện và giám đôc Thí nghiệm sinh học nhiệt đới Sơn; TS Pham Ngọc Tuấn DHQG SG giới thiệu phòng thí nghiệm quốc gia về hệ thống .Những thông tin về các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia khá lý thú (đó là chưa tính đền Bể thử tàu Quốc gia đang xây dựng ?) vì nhà nước đầu tư khá đậm về người lẫn thiết bị và liệu các doanh nghiệp hàng hải quốc doanh lẫn tư doanh có thể vươn lên nhờ đứng trên vai những người khổng lồ này ? Tại Hội nghị này , gặp được hai điều lý thú : Ông Phùng , khuyên Hội Đóng Tàu nên tham gia Hội Doanh nghiệp , thuộc VCCI và gặp ông Phó Tổng của Quatest 03

Hội nghi Vinatest 2016 Có cái gì mà không phải tét , phải kiểm mà không cần kiểm , chỉ cần có cái "dzai" /giấy .Lần lượt các hình : Bà Thư chủ tịch Hội mở đầu ; Nguyên Tổng Cục trưởng Vinatest Nguyễn Hữu Thiện và giám đôc Thí nghiệm sinh học nhiệt đới Sơn; TS Pham Ngọc Tuấn DHQG SG giới thiệu phòng thí nghiệm quốc gia về hệ thống .Những thông tin về các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia khá lý thú (đó là chưa tính đền Bể thử tàu Quốc gia đang xây dựng ?) vì nhà nước đầu tư khá đậm về người lẫn thiết bị và liệu các doanh nghiệp hàng hải quốc doanh lẫn tư doanh có thể vươn lên nhờ đứng trên vai những người khổng lồ này ?


Comments Off

Chuẩn bị du lịch Úc vào dịp cuối năm 2016


.

Thế là tôi quyết định qua Noel và Tết Dương lịch 2017 tại Úc
1/Chặng đầu : con đường tới Úc 
Ngày Thứ Năm 15/12/2016 chúng tôi rời Tân Sơn Nhất vào lúc 10 giờ 35 bằng máy bay  Air Asia. Có mua 20 kgs hành lý . Sau  2 giờ bay, tới Kuala Lumpur lúc 13 giờ 30 (múi giờ thứ 8) .Đợi tại đây 9 giờ đồng hồ , tới 10 giờ 30 đêm mới bay tiếp . Sau khí bay 9  giờ đồng hồ  , tới 9 giờ 20 sáng ngày Thứ Sáu 16/12/2016 tới sân bay Tullamarine Melbourne, terminal số 2 . Có 4 giờ để làm thủ tục hải quan , an ninh và chuyển tới terminal số 4 nội địa để bay đi Launceston (đọc là lan- xet- tơn) bằng chuyến bay Jetstar Pacific vào lúc 1 giờ 45 chiều . Có mua 25 kg hành lý . Nếu thông đồng bén giọt sẽ tới Launceston vào lúc 2 giờ 50 chiều , sau 1 giờ bay . Tại sân bay Launceston làm thủ tục mua SIM điện thoại dùng trong 20 ngày tại Úc . Chọn Telstra : $10 Pre-Paid SIM Starter Kit ; 6GB Data
Unlimited National Calls & SMS ; Deal: 1GB + 5GB Bonus Dat  Và mua tiền Úc nữa . 1 USD=1,33 AUD .Tức là 1AUD=16K tiền Việt.
       Từ sân bay Launceston về nhà Nguyễn Hùng , địa chỉ 7 Hoblers Bridge Road Newstead TAS 7250 , tức là phía Bắc của sân bay, cách nhau quãng đường 15 km , lái xe chừng 20 phút . Giả dụ Hùng bận ,có thể đi xe bus như sau : xe 740, 700, 28 . Úc có Uber . Ngôi nhà của anh Hùng có trên web : 617 mét vuông , có ba buồng ngủ, xây năm 1952 , được chủ mua năm 2003 với giá hơn 100K nay giá khoảng 274 K đô la. Ảnh nhà Hùng 

7 Hoblers

2/Chặng 2 : Đi Hobart 
 Ngày Thứ hai 19/12/2016 đi Hobart bằng xe bus Tassielink  , bến xe cách nhà 3, 6 km .  Suy nghĩ đi bus vì có thề sáng thứ hai Hùng bận dậy học . Từ nhà đi bộ ra Stop 7 Newstead Shop đón xe 40 tới 86 A St John St , đi bộ một chút tới Cornwall Square . Tại đây đi xe 700 trong 2 giờ 30 phút tới Hydro Building Hobart . Đi bộ 400 mét tới Backpacker Imperial Hostel tại phố 138 Collins . Nhưng xe 700 chỉ có một chuyến buổi sáng khởi hành lúc 9 giờ 30 , giá vé 35 $ /pax !Nếu đi Redline có chuyến 13 giờ và 17 giờ 30 giá vé 83 $ . Vậy quyết định đi sớm vậy ! 
Đón xe 40 ra Cornwall Square
Hôm nay đăng ký Backpacker Imperial đây ! Cuối cùng đăng ký Imperial 3 tối , 2 giường đơn là 2,6 tr VND , không có ăn sáng ! Quanh 138 Collins xem có hàng quán gì ? Quá nhiều mall , thuận tiện mua bán . Và xem luôn cách ra sân bay vào ngày thứ năm 22/12/2016

3/ Chặng thứ 3 : Về Melbourne Chuyến bay Tiger , đăng ký bởi Cheapoair : 38356850; Tiger : N5D1YF ; giá vé 115 usd, khởi hành lúc 10 giờ 10, tới Melbourne lúc 11 giờ . Không thấy nói fee baggage ? Sân bay Hobart cách nhà trọ 18 km . Đi Tassielink từ Hydro Building ? Xe 726 . Về tới MEL, dự định về thẳng nhà cháu Tâm theo địa  chỉ :  41 Cypress Avenue GlenWaverley VIC 3150., cách sân bay 50 km về phía đông nam . Dự kiến hành trình :- Đi Skybus về tới Skybus Coach Terminal .Sau đó chuyền sang ga Southern Cross đi tàu từ ga đó tới ga Blackburn ,bus 703 tới Cypress Ave . Hành trình này cũng phải hơn 2 giờ . Trong thời gian ở Melbourne , cần đi thăm những nơi này :-James Cook House (Fitzroy Garden )

               -Hop On –Hop Off  quanh Melbourne 
Liên lạc với Nguyễn Văn Hiếu, Phan Đình Hùng , Trương Cầm 

4/ Chặng thứ 4 : Đi Sydney - Đến nay chưa vạch ngày đi Sydney nhưng muốn đón Tết Dương Lịch tại nhà hát Con Sò 

5/Chặng thứ 5 : Về Sài Gòn Ngày thứ Bẩy  07/01/2017  Từ Sydney bay Air Asia HCM lúc 11:55 ;  mã : FNB48R tới Kul lúc 17 giờ 30 . Tới 8 giờ sáng Chủ nhật bay tiếp về tới SGN lúc 8 giờ 55  



 

Thế là tôi quyết định qua Noel và Tết Dương lịch 2017 tại Úc
1/Chặng đầu : con đường tới Úc 
Ngày Thứ Năm 15/12/2016 chúng tôi rời Tân Sơn Nhất vào lúc 10 giờ 35 bằng máy bay  Air Asia. Có mua 20 kgs hành lý . Sau  2 giờ bay, tới Kuala Lumpur lúc 13 giờ 30 (múi giờ thứ 8) .Đợi tại đây 9 giờ đồng hồ , tới 10 giờ 30 đêm mới bay tiếp . Sau khí bay 9  giờ đồng hồ  , tới 9 giờ 20 sáng ngày Thứ Sáu 16/12/2016 tới sân bay Tullamarine Melbourne, terminal số 2 . Có 4 giờ để làm thủ tục hải quan , an ninh và chuyển tới terminal số 4 nội địa để bay đi Launceston (đọc là lan- xet- tơn) bằng chuyến bay Jetstar Pacific vào lúc 1 giờ 45 chiều . Có mua 25 kg hành lý . Nếu thông đồng bén giọt sẽ tới Launceston vào lúc 2 giờ 50 chiều , sau 1 giờ bay . Tại sân bay Launceston làm thủ tục mua SIM điện thoại dùng trong 20 ngày tại Úc . Chọn Telstra : $10 Pre-Paid SIM Starter Kit ; 6GB Data
Unlimited National Calls & SMS ; Deal: 1GB + 5GB Bonus Dat  Và mua tiền Úc nữa . 1 USD=1,33 AUD .Tức là 1AUD=16K tiền Việt.
       Từ sân bay Launceston về nhà Nguyễn Hùng , địa chỉ 7 Hoblers Bridge Road Newstead TAS 7250 , tức là phía Bắc của sân bay, cách nhau quãng đường 15 km , lái xe chừng 20 phút . Giả dụ Hùng bận ,có thể đi xe bus như sau : xe 740, 700, 28 . Úc có Uber . Ngôi nhà của anh Hùng có trên web : 617 mét vuông , có ba buồng ngủ, xây năm 1952 , được chủ mua năm 2003 với giá hơn 100K nay giá khoảng 274 K đô la. Ảnh nhà Hùng 
7 Hoblers

2/Chặng 2 : Đi Hobart 
 Ngày Thứ hai 19/12/2016 đi Hobart bằng xe bus Tassielink  , bến xe cách nhà 3, 6 km .  Suy nghĩ đi bus vì có thề sáng thứ hai Hùng bận dậy học . Từ nhà đi bộ ra Stop 7 Newstead Shop đón xe 40 tới 86 A St John St , đi bộ một chút tới Cornwall Square . Tại đây đi xe 700 trong 2 giờ 30 phút tới Hydro Building Hobart . Đi bộ 400 mét tới Backpacker Imperial Hostel tại phố 138 Collins . Nhưng xe 700 chỉ có một chuyến buổi sáng khởi hành lúc 9 giờ 30 , giá vé 35 $ /pax !Nếu đi Redline có chuyến 13 giờ và 17 giờ 30 giá vé 83 $ . Vậy quyết định đi sớm vậy ! 
Đón xe 40 ra Cornwall Square
Hôm nay đăng ký Backpacker Imperial đây ! Cuối cùng đăng ký Imperial 3 tối , 2 giường đơn là 2,6 tr VND , không có ăn sáng ! Quanh 138 Collins xem có hàng quán gì ? Quá nhiều mall , thuận tiện mua bán . Và xem luôn cách ra sân bay vào ngày thứ năm 22/12/2016

3/ Chặng thứ 3 : Về Melbourne Chuyến bay Tiger , đăng ký bởi Cheapoair : 38356850; Tiger : N5D1YF ; giá vé 115 usd, khởi hành lúc 10 giờ 10, tới Melbourne lúc 11 giờ . Không thấy nói fee baggage ? Sân bay Hobart cách nhà trọ 18 km . Đi Tassielink từ Hydro Building ? Xe 726 . Về tới MEL, dự định về thẳng nhà cháu Tâm theo địa  chỉ :  41 Cypress Avenue GlenWaverley VIC 3150., cách sân bay 50 km về phía đông nam . Dự kiến hành trình :- Đi Skybus về tới Skybus Coach Terminal .Sau đó chuyền sang ga Southern Cross đi tàu từ ga đó tới ga Blackburn ,bus 703 tới Cypress Ave . Hành trình này cũng phải hơn 2 giờ . Trong thời gian ở Melbourne , cần đi thăm những nơi này :-James Cook House (Fitzroy Garden )

               -Hop On –Hop Off  quanh Melbourne 
Liên lạc với Nguyễn Văn Hiếu, Phan Đình Hùng , Trương Cầm 

4/ Chặng thứ 4 : Đi Sydney - Đến nay chưa vạch ngày đi Sydney nhưng muốn đón Tết Dương Lịch tại nhà hát Con Sò 

5/Chặng thứ 5 : Về Sài Gòn Ngày thứ Bẩy  07/01/2017  Từ Sydney bay Air Asia HCM lúc 11:55 ;  mã : FNB48R tới Kul lúc 17 giờ 30 . Tới 8 giờ sáng Chủ nhật bay tiếp về tới SGN lúc 8 giờ 55  




 

Comments Off

Sổ tay Tàu cá Trung Quốc


.

Trong các tài liệu mà Công ty Biển Việt , một công ty thiết kế tàu cá có truyền thống lâu đời của ngành thủy sản , còn lưu giữ có một cuốn :"Sổ tay Thuyền Đánh cá Trung quốc " được biên soạn công phu từ những năm 60 . Đó là tài liệu tham khảo tốt cho những ai làm nghề tàu cá và nghiên cứu thuyền truyền thống của dân tộc ta . Tôi xin chép lại mục lục của cuốn Sổ tay này :

I- THUYỀN CÁ KHU VỰC HOÀNG BỘT HẢI

(1) Khái luận về thuyền cá khu vực Hoàng Bột Hải
(2) Bảng rính năng thuyền cá khu vực Hoàng Bột Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Hoàng Bột Hải
(4) Các bản vẽ :
1- Tàu lưới rê ( 剌网) 
Bản vẽ 1 , Bản vẽ 2, Bản vẽ 3
2- Tàu lưới vây ( 圍 网) Bản vẽ 4-9
3-Tàu lưới kéo (拖网) Bản vẽ 10-12
II-THUYỀN ĐÁNH CÁ KHU VỰC ĐÔNG HẢI
(1) Khái luận về thuyền cá khu vực Đông Hải
(2) Bảng tính năng thuyền cá khu vực Đông Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Đông Hải
(4) Các bản vẽ :
1-Tàu lưới rê( 剌网) 
2-Tàu lưới vây( 圍 网)
3-Tàu lưới kéo(拖网)
4- Tàu lưới cố định (定置网)
5-Các loại tàu khác 
III -THUYỀN ĐÁNH CÁ KHU VỰC NAM HẢI 
1) Khái luận về thuyền cá khu vực Nam Hải
(2) Bảng tính năng thuyền cá khu vực Nam Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Nam Hải
(4) Các bản vẽ :
1-Tàu lưới rê( 剌网) 
2-Tàu lưới vây( 圍 网)
3-Tàu lưới kéo(拖网)
4- Tàu lưới cố định (定置网)
5-Các loại tàu khác 

 

Trong các tài liệu mà Công ty Biển Việt , một công ty thiết kế tàu cá có truyền thống lâu đời của ngành thủy sản , còn lưu giữ có một cuốn :"Sổ tay Thuyền Đánh cá Trung quốc " được biên soạn công phu từ những năm 60 . Đó là tài liệu tham khảo tốt cho những ai làm nghề tàu cá và nghiên cứu thuyền truyền thống của dân tộc ta . Tôi xin chép lại mục lục của cuốn Sổ tay này :

I- THUYỀN CÁ KHU VỰC HOÀNG BỘT HẢI

(1) Khái luận về thuyền cá khu vực Hoàng Bột Hải
(2) Bảng rính năng thuyền cá khu vực Hoàng Bột Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Hoàng Bột Hải
(4) Các bản vẽ :
1- Tàu lưới rê ( 剌网) 
Bản vẽ 1 , Bản vẽ 2, Bản vẽ 3
2- Tàu lưới vây ( 圍 网) Bản vẽ 4-9
3-Tàu lưới kéo (拖网) Bản vẽ 10-12
II-THUYỀN ĐÁNH CÁ KHU VỰC ĐÔNG HẢI
(1) Khái luận về thuyền cá khu vực Đông Hải
(2) Bảng tính năng thuyền cá khu vực Đông Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Đông Hải
(4) Các bản vẽ :
1-Tàu lưới rê( 剌网) 
2-Tàu lưới vây( 圍 网)
3-Tàu lưới kéo(拖网)
4- Tàu lưới cố định (定置网)
5-Các loại tàu khác 
III -THUYỀN ĐÁNH CÁ KHU VỰC NAM HẢI 
1) Khái luận về thuyền cá khu vực Nam Hải
(2) Bảng tính năng thuyền cá khu vực Nam Hải
(3) Thuyết minh các loại tàu cá khu vực Nam Hải
(4) Các bản vẽ :
1-Tàu lưới rê( 剌网) 
2-Tàu lưới vây( 圍 网)
3-Tàu lưới kéo(拖网)
4- Tàu lưới cố định (定置网)
5-Các loại tàu khác 


 

Comments Off

Tiếp tục về đề tài Guyane .Chép lại lưu trữ


.

https://vimeo.com/114437934
TTO - Cuối tháng 4-2008, Tuổi Trẻ đã đăng loạt bài gồm 13 kỳ do nhà báo Danh Đức và nhóm phóng viên Tuổi Trẻ thực hiện, về nhà lao An Nam ở xứ Guyane - thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Đề tài tiến sĩ của Pierre Michelon
Pierre Michelon tìm hiểu thông tin, hình ảnh và hiện vật liên quan đến các cựu tù nhân Việt Nam ở Guyane được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Thái Bình - Ảnh: Q.TR.
Loạt bài này đã góp phần khơi dậy một giai đoạn lịch sử, một quãng đời thăng trầm của những nhà cách mạng Việt Nam bị đi đày ở xứ Guyane - nơi rừng thiêng nước độc hoang sơ đã lấy đi mạng sống của không ít người tù.
Vào tháng 6-2016, một cơ duyên nữa tiếp tục mở ra câu chuyện về tù nhân VN ở Guyane qua một người Pháp có tên Pierre Michelon. Lần này, các mảnh ghép câu chuyện về chân dung tù nhân đầy đặn hơn, gần gũi hơn.
Chúng tôi xin được chia sẻ câu chuyện ấy với bạn đọc, với hậu duệ của những tù nhân, với những người quan tâm đến lịch sử.
Bức email tình cờ
Cách đây hơn một năm, vào tháng 3-2015, tình cờ chúng tôi nhận được email của một người Pháp tên là Pierre Michelon.
Anh tự xưng là một nghệ sĩ, xin phép hẹn gặp chúng tôi để trao đổi về một đề tài mà anh đang theo đuổi - đó là câu chuyện về những người tù VN ở Guyane thuộc Pháp những năm 1930.
Thì ra Pierre đã tìm đọc được loạt bài nhà lao An Nam ở Guyane đăng trên báo Tuổi Trẻ năm 2008.
Trong cuộc gặp chóng vánh với chúng tôi, Pierre đã chia sẻ một số tư liệu lưu trữ được tìm thấy ở Pháp về một tù nhân VN bị đày đến Guyane năm 1931 tên là Trần Tử Yến, và ngỏ lời rằng anh sẽ cần đến sự giúp đỡ của chúng tôi nếu anh có dịp quay lại VN để tiếp tục dự án nghiên cứu của mình về cuộc đời những người tù VN bị đi đày ở Guyane.
Sau cuộc gặp năm 2015, cứ lâu lâu Pierre lại gửi cho chúng tôi một bức email để cập nhật tình hình nghiên cứu của mình.
Hóa ra câu chuyện về tù nhân VN ở Guyane là một trong những đề tài nghiên cứu bậc tiến sĩ của anh tại Trường Mỹ thuật Paris.
Một ngày nọ, chúng tôi nhận được tin vui rằng anh đã có được tài trợ của Viện Pháp (French Institute) cho chuyến quay lại VN để tiếp tục nghiên cứu về những người tù.
Anh cũng bày tỏ nguyện vọng được chia sẻ những tài liệu mình tìm được ở Pháp với tất cả những người quan tâm ở VN, với gia đình và hậu duệ của những người cựu tù ở VN, trong đó có gia đình cựu tù Lương Duyên Hồi và Bùi Hữu Diên quê ở tỉnh Thái Bình. (Lương Duyên Hồi là một trong những nhân vật khá đậm nét trong loạt bài của Tuổi Trẻ trước đây).
Pierre kể rằng anh bắt đầu quan tâm đến những hoạt động đấu tranh chống chế độ thuộc địa từ năm 2011. Anh đã đến Guyane thuộc Pháp để tìm hiểu về chế độ này.
Ở đó anh gặp vị bí thư của một đảng ly khai: Đảng Phong trào đẩy lùi chế độ thuộc địa và tiến bộ xã hội. Vị này khuyên anh nên tìm hiểu không chỉ những tù nhân bị đi đày người Pháp, mà còn có tù nhân đi đày từ nhiều vùng khác tới như châu Phi, VN, Trung Quốc...
Tình cờ vị này có một người bà con kết hôn với con gái của người cựu tù VN Trần Tử Yến. Từ đó, Pierre đã tìm cách gặp gia đình của Trần Tử Yến.
Sau khi từ Guyane trở về, Pierre tiếp tục tìm tòi các tư liệu lịch sử về nhà tù thuộc địa ở Guyane và về cá nhân Trần Tử Yến và những người tù khác từ các trung tâm lưu trữ, các nhà nghiên cứu sử học, nhà làm phim và thân nhân những cựu tù.
Anh tin rằng những người tù như Trần Tử Yến và câu chuyện của họ thể hiện một khía cạnh chân thực của lịch sử, về chế độ thuộc địa và những bạo lực và hà khắc của nó mà đôi khi người ta cố tình lãng quên.
Theo đuổi lịch sử bằng nghệ thuật
Trong bản giới thiệu về dự án lịch sử - nghệ thuật của Pierre Michelon về những người cựu tù có đoạn: “Những ngọn gió bẽn lẽn thì thầm thổi tới từ Guyane thuộc Pháp, từ Kanaky (vùng lãnh thổ thuộc Pháp ở Nam Thái Bình Dương, còn gọi là New Caledonia hay Tân Đảo - PV), từ VN, Algeria hay từ Pháp, những tiếng nói cất lên đã bắt đầu thoát ra.
Những tiếng nói này là của những người tù chính trị bị đi đày do quyền lực của chế độ thuộc địa mà họ đã quyết đấu tranh chống lại”.
Tấm màn lịch sử được dệt nên từ những câu chuyện đan chéo nhau qua các khu vực địa lý và các con đường định mệnh đã được kết nối lại.
Nhiều lý tưởng cách mạng và bối cảnh đấu tranh đã được gặp gỡ và từ đó gắn kết với nhau hoặc là chống lại nhau.
Những bức thư bí mật (dù có đến tay người nhận hay không) như những sợi chỉ sáng màu đã giúp xâu chuỗi và dệt nên tấm màn, những câu chuyện về lao động cưỡng bức, những trường hợp đào thoát hoặc mất tích đôi khi nổi lên như những yếu tố gây nhiễu trên bức màn dệt.
Cùng với hậu duệ của những người tù ở Guyane, khi nào có thể và khi họ muốn, Pierre Michelon đang thu thập một xêri các video mang đầy tính thơ, các bản dịch và những ký ức tập thể.
Pierre nói rằng anh lựa chọn con đường làm phim - video nghệ thuật dựa trên những nghiên cứu lịch sử, bởi vì phim ảnh là một công cụ có thể kết hợp nhiều yếu tố, vừa có thể ghi lại thời gian và tình huống, vừa bao gồm âm thanh, hình ảnh.
Nghệ thuật nói chung cho phép anh thoát khỏi những giới hạn của thực tế bằng trí tưởng tượng.
Và đôi khi, thông qua sự kết hợp giữa lối kể chuyện kết hợp hư cấu với những sự kiện, dấu vết lịch sử, người ta có thể đến với một câu chuyện rất gần với bản chất sự thật. Và đó là điều mà anh theo đuổi, tìm kiếm trong nhiều năm qua.
Pierre có mặt tại VN tháng 6-2016, mang theo máy quay phim, những xấp tài liệu dày về những người tù VN mà anh tìm được tại Viện Lưu trữ quốc gia hải ngoại vùng Aix en Provence - Pháp, một số phim và ảnh tư liệu từ một số nguồn khác.
Anh đi cùng với một kỹ sư âm thanh người Việt gốc Pháp, Diane Xuân Lan - cô gái trẻ nhỏ nhắn yêu ẩm thực VN, đặc biệt là nước mắm, và William Trần Tử Yến - anh chàng to lớn với vẻ mặt hiền lành, cháu nội của người cựu tù Trần Tử Yến.
Với một vẻ ngoài lặng lẽ và khiêm tốn, Pierre Michelon dường như rất phù hợp với vai trò nghệ sĩ - nhà nghiên cứu âm thầm lục tìm và xâu chuỗi những câu chuyện gây xúc động từ quá khứ vốn bị vùi lấp trong hàng núi những thông tin ở các kho lưu trữ và thư viện mà anh thường lui tới.
Anh dường như có thiên hướng quan tâm tới những gì dường như bị bỏ quên hoặc ít được nhắc đến. Và nhờ có anh, chúng tôi có thêm thông tin để bổ sung cho bức tranh số phận những cựu tù VN ở Guyane.
“Cùng với hậu duệ của những người tù ở Guyane, khi nào có thể và khi họ muốn, Pierre Michelon đang thu thập một xêri các video mang đầy tính thơ, những bản dịch và những ký ức tập thể

https://vimeo.com/114437934
TTO - Cuối tháng 4-2008, Tuổi Trẻ đã đăng loạt bài gồm 13 kỳ do nhà báo Danh Đức và nhóm phóng viên Tuổi Trẻ thực hiện, về nhà lao An Nam ở xứ Guyane - thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.

Đề tài tiến sĩ của Pierre Michelon
Pierre Michelon tìm hiểu thông tin, hình ảnh và hiện vật liên quan đến các cựu tù nhân Việt Nam ở Guyane được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Thái Bình - Ảnh: Q.TR.
Loạt bài này đã góp phần khơi dậy một giai đoạn lịch sử, một quãng đời thăng trầm của những nhà cách mạng Việt Nam bị đi đày ở xứ Guyane - nơi rừng thiêng nước độc hoang sơ đã lấy đi mạng sống của không ít người tù.
Vào tháng 6-2016, một cơ duyên nữa tiếp tục mở ra câu chuyện về tù nhân VN ở Guyane qua một người Pháp có tên Pierre Michelon. Lần này, các mảnh ghép câu chuyện về chân dung tù nhân đầy đặn hơn, gần gũi hơn.
Chúng tôi xin được chia sẻ câu chuyện ấy với bạn đọc, với hậu duệ của những tù nhân, với những người quan tâm đến lịch sử.
Bức email tình cờ
Cách đây hơn một năm, vào tháng 3-2015, tình cờ chúng tôi nhận được email của một người Pháp tên là Pierre Michelon.
Anh tự xưng là một nghệ sĩ, xin phép hẹn gặp chúng tôi để trao đổi về một đề tài mà anh đang theo đuổi - đó là câu chuyện về những người tù VN ở Guyane thuộc Pháp những năm 1930.
Thì ra Pierre đã tìm đọc được loạt bài nhà lao An Nam ở Guyane đăng trên báo Tuổi Trẻ năm 2008.
Trong cuộc gặp chóng vánh với chúng tôi, Pierre đã chia sẻ một số tư liệu lưu trữ được tìm thấy ở Pháp về một tù nhân VN bị đày đến Guyane năm 1931 tên là Trần Tử Yến, và ngỏ lời rằng anh sẽ cần đến sự giúp đỡ của chúng tôi nếu anh có dịp quay lại VN để tiếp tục dự án nghiên cứu của mình về cuộc đời những người tù VN bị đi đày ở Guyane.
Sau cuộc gặp năm 2015, cứ lâu lâu Pierre lại gửi cho chúng tôi một bức email để cập nhật tình hình nghiên cứu của mình.
Hóa ra câu chuyện về tù nhân VN ở Guyane là một trong những đề tài nghiên cứu bậc tiến sĩ của anh tại Trường Mỹ thuật Paris.
Một ngày nọ, chúng tôi nhận được tin vui rằng anh đã có được tài trợ của Viện Pháp (French Institute) cho chuyến quay lại VN để tiếp tục nghiên cứu về những người tù.
Anh cũng bày tỏ nguyện vọng được chia sẻ những tài liệu mình tìm được ở Pháp với tất cả những người quan tâm ở VN, với gia đình và hậu duệ của những người cựu tù ở VN, trong đó có gia đình cựu tù Lương Duyên Hồi và Bùi Hữu Diên quê ở tỉnh Thái Bình. (Lương Duyên Hồi là một trong những nhân vật khá đậm nét trong loạt bài của Tuổi Trẻ trước đây).
Pierre kể rằng anh bắt đầu quan tâm đến những hoạt động đấu tranh chống chế độ thuộc địa từ năm 2011. Anh đã đến Guyane thuộc Pháp để tìm hiểu về chế độ này.
Ở đó anh gặp vị bí thư của một đảng ly khai: Đảng Phong trào đẩy lùi chế độ thuộc địa và tiến bộ xã hội. Vị này khuyên anh nên tìm hiểu không chỉ những tù nhân bị đi đày người Pháp, mà còn có tù nhân đi đày từ nhiều vùng khác tới như châu Phi, VN, Trung Quốc...
Tình cờ vị này có một người bà con kết hôn với con gái của người cựu tù VN Trần Tử Yến. Từ đó, Pierre đã tìm cách gặp gia đình của Trần Tử Yến.
Sau khi từ Guyane trở về, Pierre tiếp tục tìm tòi các tư liệu lịch sử về nhà tù thuộc địa ở Guyane và về cá nhân Trần Tử Yến và những người tù khác từ các trung tâm lưu trữ, các nhà nghiên cứu sử học, nhà làm phim và thân nhân những cựu tù.
Anh tin rằng những người tù như Trần Tử Yến và câu chuyện của họ thể hiện một khía cạnh chân thực của lịch sử, về chế độ thuộc địa và những bạo lực và hà khắc của nó mà đôi khi người ta cố tình lãng quên.
Theo đuổi lịch sử bằng nghệ thuật
Trong bản giới thiệu về dự án lịch sử - nghệ thuật của Pierre Michelon về những người cựu tù có đoạn: “Những ngọn gió bẽn lẽn thì thầm thổi tới từ Guyane thuộc Pháp, từ Kanaky (vùng lãnh thổ thuộc Pháp ở Nam Thái Bình Dương, còn gọi là New Caledonia hay Tân Đảo - PV), từ VN, Algeria hay từ Pháp, những tiếng nói cất lên đã bắt đầu thoát ra.
Những tiếng nói này là của những người tù chính trị bị đi đày do quyền lực của chế độ thuộc địa mà họ đã quyết đấu tranh chống lại”.
Tấm màn lịch sử được dệt nên từ những câu chuyện đan chéo nhau qua các khu vực địa lý và các con đường định mệnh đã được kết nối lại.
Nhiều lý tưởng cách mạng và bối cảnh đấu tranh đã được gặp gỡ và từ đó gắn kết với nhau hoặc là chống lại nhau.
Những bức thư bí mật (dù có đến tay người nhận hay không) như những sợi chỉ sáng màu đã giúp xâu chuỗi và dệt nên tấm màn, những câu chuyện về lao động cưỡng bức, những trường hợp đào thoát hoặc mất tích đôi khi nổi lên như những yếu tố gây nhiễu trên bức màn dệt.
Cùng với hậu duệ của những người tù ở Guyane, khi nào có thể và khi họ muốn, Pierre Michelon đang thu thập một xêri các video mang đầy tính thơ, các bản dịch và những ký ức tập thể.
Pierre nói rằng anh lựa chọn con đường làm phim - video nghệ thuật dựa trên những nghiên cứu lịch sử, bởi vì phim ảnh là một công cụ có thể kết hợp nhiều yếu tố, vừa có thể ghi lại thời gian và tình huống, vừa bao gồm âm thanh, hình ảnh.
Nghệ thuật nói chung cho phép anh thoát khỏi những giới hạn của thực tế bằng trí tưởng tượng.
Và đôi khi, thông qua sự kết hợp giữa lối kể chuyện kết hợp hư cấu với những sự kiện, dấu vết lịch sử, người ta có thể đến với một câu chuyện rất gần với bản chất sự thật. Và đó là điều mà anh theo đuổi, tìm kiếm trong nhiều năm qua.
Pierre có mặt tại VN tháng 6-2016, mang theo máy quay phim, những xấp tài liệu dày về những người tù VN mà anh tìm được tại Viện Lưu trữ quốc gia hải ngoại vùng Aix en Provence - Pháp, một số phim và ảnh tư liệu từ một số nguồn khác.
Anh đi cùng với một kỹ sư âm thanh người Việt gốc Pháp, Diane Xuân Lan - cô gái trẻ nhỏ nhắn yêu ẩm thực VN, đặc biệt là nước mắm, và William Trần Tử Yến - anh chàng to lớn với vẻ mặt hiền lành, cháu nội của người cựu tù Trần Tử Yến.
Với một vẻ ngoài lặng lẽ và khiêm tốn, Pierre Michelon dường như rất phù hợp với vai trò nghệ sĩ - nhà nghiên cứu âm thầm lục tìm và xâu chuỗi những câu chuyện gây xúc động từ quá khứ vốn bị vùi lấp trong hàng núi những thông tin ở các kho lưu trữ và thư viện mà anh thường lui tới.
Anh dường như có thiên hướng quan tâm tới những gì dường như bị bỏ quên hoặc ít được nhắc đến. Và nhờ có anh, chúng tôi có thêm thông tin để bổ sung cho bức tranh số phận những cựu tù VN ở Guyane.
“Cùng với hậu duệ của những người tù ở Guyane, khi nào có thể và khi họ muốn, Pierre Michelon đang thu thập một xêri các video mang đầy tính thơ, những bản dịch và những ký ức tập thể

Comments Off

Buồm và tiếng Pháp


.

Vì đang dịch cuốn Essai của Pierre Paris nên tôi thấy cần phải đọc và học sâu hơn về buồm sau khi đã dịch sơ bộ một lần cuốn sách đáng giá này . Hôm nay đọc kỹ về buồm tứ giác 
Buồm tai trâu (voile aurique) là buồm tứ giác không đối xứng , luôn để cạnh tấn (bord d'attaque) vào gió , đó là điểm khác với buồm vuông . Có ba cách treo buồm tai trâu , đó là buồm treo một phần ba (voile au tiers/bourcet ) , buồm xx (Voile à corne) , buồm xx (Voile à livarde) 
Buồm treo một phần ba -

Buồm treo một phần ba

Buồm hình thang, cạnh trên được luồn xà treo và dây treo buồm tại một phần ba chiều dài
Buồm treo XX (voile a corne)

Xà treo buồm tựa đầu vào cột bởi một cái móc và quay quanh trụ cột. 

Thanh lèo (bôme/gui ) -xà nằm ngang , quay dưới cột buồm , duy trì và định hướng buồm tam giác và buồm tai trâu .
Vị trí các góc buồm như hình vẽ :
Ba cạnh của một buồm tam giác là :guindant ( hay còn gọi là bord d’attaque) , la chute (hay còn gọi là bord de fuite) , và bordure . Ba góc buồm là point d’amure, point de drisse, và point d’ecoute .  
Các dây di động của buồm (manœuvres courantes) gồm :
-drisse dây kéo lên hay hạ xuống xà ngang treo buồm (vergue) và buồm
-bras điều khiển buồm vuông bằng cách tác động vào xà treo buồm
-écoute và amure điều chỉnh hướng buồm bằng cách tác động vào các góc “tự do” của buồm  
Antenne- xà (espar/corne) thường có kích thước lớn và rất nghiêng so với mặt phẳng nằm ngang để luốn cạnh trên của buồm latin  
Buồm latin - buồm tam giác đặc trưng vùng Địa Trung Hải

Hôm nay ngày 23/07/16 tôi đã đưa lên mạng để cùng thảo luận với anh em về những câu chuyện này

Về các cạnh của một tấm buồm 
Buồm tam giác : Người Pháp và Anh  phân biệt ba cạnh như sau  :
-cạnh guindant ( hay còn gọi là bord d’attaque) , người Anh Mỹ gọi là luff
la chute (hay còn gọi là bord de fuite) , người Anh Mỹ gọi là leech
và bordure .,Anh Mỹ gọi là foot
Ba góc buồm là point d’amure, //Anh Mỹ -tack
point de drisse (góc buộc để kéo hạ buồm lên xuống) , //Anh Mỹ -head
và point d’ecoute (góc buộc dây lèo) //Anh Mỹ -clew  .
Buồm từ giác : Người Pháp và Anh Mỹ phân biệt các cạnh như sau:
Người Anh Mỹ cũng gọi là head, leech,foot còn người Pháp là

-



Ghi chú các cạnh buồm : 1-foot; 2-leech; 3-luff; 4-head





Các góc buồm tứ giác khi treo dọc gọi tên như sau:

Góc trên phía trước là throat, góc trên phía sau là peak ; góc dưới là tack và clew
Vì đang dịch cuốn Essai của Pierre Paris nên tôi thấy cần phải đọc và học sâu hơn về buồm sau khi đã dịch sơ bộ một lần cuốn sách đáng giá này . Hôm nay đọc kỹ về buồm tứ giác 
Buồm tai trâu (voile aurique) là buồm tứ giác không đối xứng , luôn để cạnh tấn (bord d'attaque) vào gió , đó là điểm khác với buồm vuông . Có ba cách treo buồm tai trâu , đó là buồm treo một phần ba (voile au tiers/bourcet ) , buồm xx (Voile à corne) , buồm xx (Voile à livarde) 
Buồm treo một phần ba -
Buồm treo một phần ba

Buồm hình thang, cạnh trên được luồn xà treo và dây treo buồm tại một phần ba chiều dài
Buồm treo XX (voile a corne)

Xà treo buồm tựa đầu vào cột bởi một cái móc và quay quanh trụ cột. 

Thanh lèo (bôme/gui ) -xà nằm ngang , quay dưới cột buồm , duy trì và định hướng buồm tam giác và buồm tai trâu .
Vị trí các góc buồm như hình vẽ :
Ba cạnh của một buồm tam giác là :guindant ( hay còn gọi là bord d’attaque) , la chute (hay còn gọi là bord de fuite) , và bordure . Ba góc buồm là point d’amure, point de drisse, và point d’ecoute .  
Các dây di động của buồm (manœuvres courantes) gồm :
-drisse dây kéo lên hay hạ xuống xà ngang treo buồm (vergue) và buồm
-bras điều khiển buồm vuông bằng cách tác động vào xà treo buồm
-écoute và amure điều chỉnh hướng buồm bằng cách tác động vào các góc “tự do” của buồm  
Antenne- xà (espar/corne) thường có kích thước lớn và rất nghiêng so với mặt phẳng nằm ngang để luốn cạnh trên của buồm latin  
Buồm latin - buồm tam giác đặc trưng vùng Địa Trung Hải

Hôm nay ngày 23/07/16 tôi đã đưa lên mạng để cùng thảo luận với anh em về những câu chuyện này

Về các cạnh của một tấm buồm 
Buồm tam giác : Người Pháp và Anh  phân biệt ba cạnh như sau  :
-cạnh guindant ( hay còn gọi là bord d’attaque) , người Anh Mỹ gọi là luff
la chute (hay còn gọi là bord de fuite) , người Anh Mỹ gọi là leech
và bordure .,Anh Mỹ gọi là foot
Ba góc buồm là point d’amure, //Anh Mỹ -tack
point de drisse (góc buộc để kéo hạ buồm lên xuống) , //Anh Mỹ -head
và point d’ecoute (góc buộc dây lèo) //Anh Mỹ -clew  .
Buồm từ giác : Người Pháp và Anh Mỹ phân biệt các cạnh như sau:
Người Anh Mỹ cũng gọi là head, leech,foot còn người Pháp là

-



Ghi chú các cạnh buồm : 1-foot; 2-leech; 3-luff; 4-head





Các góc buồm tứ giác khi treo dọc gọi tên như sau:


Góc trên phía trước là throat, góc trên phía sau là peak ; góc dưới là tack và clew

Comments Off

Nguyên lý tàu ngầm (2)


.



1.3. BẢN VẼ TUYẾN HÌNH CỦA TÀU NGẦM
Ngoại hình của tàu ngầm thông thường là một hình thể trôi nước, được biểu thị bằng bản vẽ tuyến hình. Bản vẽ tuyến hình là căn cứ quan trọng để thiết kế, tính toán và đóng mới tàu ngầm.Ngoại hình thân tàu mà nó biểu thị là bề mặt  trong của tấm vỏ bao . Bản vẽ tuyến hình của tàu ngầm gồm ba nhóm mặt cắt
1.3.1. BẢN VẼ  ĐƯỜNG SƯỜN
Lấy một loạt mặt cắt ngang cách khoảng bằng nhau song song với mặt giữa dọc theo hướng chiều dài tàu, chia thân tàu ra 20 phần bằng nhau, thành 20 sườn lý thuyết , đầu mũi là sườn 0, đầu đuôi là sườn 20, mặt cắt ngang giữa tàu là sườn 10 .Đem những mặt cắt ngang ở những sườn này vẽ chồng lên mặt sườn giữa ,ta sẽ được bản vẽ mặt cắt ngang .mặt đường sườn , do thân tàu hai bên phải trái đối xứng nhau, mỗi một mặt cắt chỉ cần vẽ nửa bên là được. Thông thường  mặt cắt  mũi tàu vẽ bên phải, còn  mặt cắt bộ phận đuôi thì vẽ bên trái.

Bản vẽ tuyến hình tàu ngầm 
a) Bản vẽ  mặt cắt dọc; (b) Bản vẽ  nửa chiều rộng đường nước ;(c) Bản vẽ đường sườn

1.3.2. BẢN VẼ NỬA CHIỀU RỘNG ĐƯỜNG NƯỚC
Dọc theo hướng mớn nước song song với mặt chuẩn lấy một vài mặt cắt nằm ngang cách khoảng bằng nhau, đường cong có được do các mặt cắt nằm ngang cắt bề mặt hình thân tàu gọi là đường nước, đem các đường nước vẽ chồng lên mặt chuẩn thì sẽ được bản vẽ đường nước ( plan of waterlines), đường nước từ mặt chuẩn ghi số lên phía trên, cũng vậy do tính đối xứng của thân tàu, có thể chỉ vẽ ra một nửa của đường nước do đó gọi là bản vẽ đường nước nửa rộng ( half-breadth plan). Do đường nước ở phía trên và phía dưới của mặt đường nước lớn nhất của thân tàu rất gần nhau, để cho rõ rệt, đem đường nước ở phía trên và phía dưới mặt đường nước lớn nhất phân biệt vẽ trên hai bản vẽ, do đó bản vẽ đường nước nửa rộng bao gồm hai nhóm đường cong.

1.3.3. BẢN VẼ MẶT CẮT DỌC

Dọc theo hướng chiều rộng tàu song song với mặt trung tuyến lấy vài mặt cắt dọc, đường cong có được do các mặt cắt dọc cắt bề mặt hình thân tàu gọi là đường cắt dọc, đem các đường cắt dọc vẽ chồng lên mặt trung tuyến thì sẽ được bản vẽ đường cắt dọc. Đường cắt dọc được ghi số từ mặt trung tuyến về hướng cạnh mạn. Trên bản vẽ đường mặt cắt dọc còn phải vẽ ra đường viền mặt cạnh của thân tàu.

Ba nhóm đường cong này vuông góc nhau, một nhóm đường cong trong một bản vẽ là đường cong, trong hai bản vẽ kia chiếu thành đường thẳng. Bất kỳ một điểm trên bề mặt thân tàu, hình chiếu trên ba bản vẽ phải thỏa mãn quan hệ hình chiếu của bản vẽ kỹ thuật “dài đối ứng, cao bằng nhau, rộng bằng nhau”, như vậy lấy bất kỳ một điểm trong một bản vẽ thì có thể tìm thấy điểm tương ứng trong hai bản vẽ kia.

Tỉ lệ của bản vẽ tuyến hình thường chọn để hoán đổi 1/100, 1/50, 1/20.

1.4. PHÂN LOẠI TÀU NGẦM
Các loại tàu ngầm hiện nay theo các nội dung công dụng, lượng chiếm nước, tuyến hình thân tàu, hình thức kết cấu và hình thức thiết bị động lực để tiến hành phân loại sơ bộ.

1.4.1. PHÂN LOẠI THEO CÔNG DỤNG CỦA TÀU NGẦM

1. Tàu ngầm chiến thuật.

Nhiệm vụ chủ yếu của tàu ngầm chiến thuật:

(1) Thực thi công kích chiến thuật các tàu chiến trên mặt nước cỡ lớn, cỡ trung của kẻ địch.

(2) Phá hoại tuyến giao thông trên biển của kẻ địch, tiêu diệt tàu vận tải của kẻ địch.

(3) Thực thi công kích chiến thuật các cảng, căn cứ trên bờ cảu kẻ địch.

(4) Chấp hành các nhiệm vụ trinh sát, tuần tra, thả thủy lôi.

Trong những nhiệm vụ trên phần lớn đều là chủ động công kích là chính, cho nên còn có thể gọi nó là tàu ngầm kiểu công kích.

Do khi thực thi công kích chiến thuật dùng những loại vũ khí khác nhau nên có thể chia nó ra hai loại hình tàu ngầm: tàu ngầm ngư lôi và tàu ngầm mang tên lửa hành trình

Vũ khí công kích của tàu ngầm ngư lôi là ngư lôi, vũ khí công kích chủ yếu của tàu ngầm tên lửa hành trình là tên lửa hành trình. Những loại tàu ngầm này thông thường cũng có lắp vũ khí ngư lôi, tàu ngầm hiện đại đã lợi dụng ống phóng lôi để phóng tên lửa hành trình, do đó tàu ngầm tên lửa hành trình xem từ hình dáng bên ngoài không khác nhau nhiều với tàu ngầm ngư lôi. Hai loại tàu ngầm này, mỗi loại có đặc điểm của nó: Tàu ngầm ngư lôi và tàu ngầm tên lửa hành trình so sánh với nhau, tàu ngầm ngư lôi do hành trình đi của ngư lôi ngắn, tốc độ hàng hành thấp, tiện cho việc tiến hành công kích mục tiêu mặt nước và trong nước ở cự ly gần; còn hành trình hàng hành của tên lửa hành trình xa hơn so với ngư lôi; tốc độ hàng hành nhanh, thích hợp tiến hành công kích các mục tiêu trên biển, trên không và trên mặt đất ở cự ly tương đối xa.

Ngoài hai loại tàu ngầm kiểu công kích kể trên ra, hiện nay lại xuất hiện một loại tàu ngầm gọi là “tàu ngầm chống tàu ngầm”.

Trong chiến tranh hiện đại do tàu ngầm có ưu điểm đột xuất, do đó các quốc gia đều tổ chức những khí tài chống tàu ngầm và binh lực chống tàu ngầm với quy mô lớn để đối phó với sự tập kích của tàu ngầm đối phương. Những năm gần đây các loại thủ đoạn chống tàu ngầm, từ chống tàu ngầm bằng tàu ngầm đến máy bay, trong đó dùng tàu ngầm để chống tàu ngầm có tính ưu việt lớn. Bởi vì tàu ngầm có thể ở dưới nước không bị hạn chế của điều kiện khí hậu phát huy tác dụng một cách có hiệu quả vả lại có thể hoạt động một cách lặng lẽ và lợi dụng trạm sonar của bản thân tàu ngầm để phát hiện tàu ngầm của đối phương và thực thi công kích, điều này các thủ đoạn chống tàu ngầm khác không bì được.

Để đạt được mục đích “lấy ngầm chống ngầm”, tàu ngầm chống tàu ngầm phải trang bị thiết bị thủy âm có tính năng tốt, tiếng ồn của tự thân cũng phải rất thấp, như vậy mới có thể dò tìm nhanh chóng, chính xác và trước tàu ngầm địch để tìm ra đối phương; tốc độ hàng hành của tàu ngầm chống tàu ngầm phải cao, tính năng cơ động phải tốt để cho nó có thể nhanh chóng chiếm cứ vị trí trận địa có lợi để theo dõi và công kích tàu ngầm địch ở trên biển, sau khi công kích lại phải có thể nhanh chóng rời khỏi đi đến vị trí an toàn tàu ngầm chống tàu ngầm phải có lắp tự điều khiển hai mặt phẳng (điều khiển từ xa) ngư lôi chống ngầm tự dẫn đường hoặc ngư lôi tên lửa bổ trợ mới có thể bắn trúng tàu ngầm địch một cách hiệu quả, cho nên tàu ngầm chống tàu ngầm trên thực tế là một loại tàu ngầm công kích có tính năng tốt hơn.

2. Tàu ngầm chiến lược.

Nhiệm vụ chủ yếu của tàu ngầm chiến lược là hủy diệt các mục tiêu chiến lược hoặc công trình như trung tâm giao thông, công nghiệp, chính trị, quân sự cố định của kẻ địch, thông thường là nói tàu ngầm đạn đạo có mang đầu đạn hạt nhân như trong hình 1-7, do đó nó có tác dụng uy hiếp hạt nhân chiến lược.

Bộ đầu chiến đấu của tên lửa đạn đạo thông thường là đầu đạn hạt nhân, uy lực nổ của nó lớn, có sức hủy diệt cực lớn, đồng thời tàu ngầm có ưu điểm tính ẩn nấp, tính cơ động khó bị kẻ địch phát hiện và bắn trúng.

Sau khi tàu ngầm có trang bị tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa thì tàu ngầm sẽ trở thành bãi bắn cơ động tên lửa đạn đạo trên biển, khiến cho kẻ địch khó tiêu diệt những bãi bắn tên lửa cơ động này, đồng thời nó có thể phóng tên lửa ở cự ly cách mục tiêu tương đối gần, như vậy không những thu nhỏ diện tích phân bố điểm rơi của tên lửa mà còn làm cho kẻ địch khó phòng ngự và ngăn chặn. Như vậy ý nghĩa chiến lược của tàu ngầm được nâng cao rất nhiều, cho nên thường tàu ngầm có mang tên lửa đạn đạo có mang đầu đạn hạt nhân là tàu ngầm có tính chiến lược.

3. Tàu ngầm đặc chủng.

Ngoài tàu ngầm có hai loại công dụng kể trên, chúng ta gọi chung những tàu ngầm thực hiện các nhiệm vụ khác là tàu ngầm đặc chủng. Hiện nay có mấy loại dưới đây:

(1) Tàu ngầm quan sát bằng rađa (radar picket submarine).

Đặc trưng của tàu ngầm quan sát bằng rađa là có lắp rađa công suất lớn dùng để dò tìm sớm máy bay địch tập kích, hoặc dùng dẫn dắt máy bay ta ngăn chặn máy bay địch, sau khi công kích máy bay địch xong thì cung cấp những tiêu chí bay về của máy bay ta, cũng có thể dùng để làm nhiễu thông tin vô tuyến và rađa của kẻ địch như hình 1-8.
HÌNH



Hình 1-8 Tàu ngầm quan sát bằng rađa



Tàu ngầm quan sát bằng rađa cũng tồn tại không ít khuyết điểm, thí dụ như khi làm việc phải nổi lên mặt nước, như vậy dễ bị kẻ địch phát hiện và bị kẻ địch công kích, đồng thời mạn khô của tàu ngầm lại thấp, hiệu năng của rađa cũng bị hạn chế nhất định; để lắp đặt ăng ten rađa cỡ lớn, kích thước vỏ vây đôi chỉ huy của tàu ngầm tăng lớn rõ rệt, ảnh hưởng tính năng ở dưới nước của tàu ngầm.

Hiện nay tàu ngầm phần lớn lấy đơn chiếc và hoạt động dưới nước là chủ yếu, thiết bị rađa công suất lớn lắp trên tàu chiến mặt nước và máy bay về mặt tính năng kỹ thuật đã vượt qua thiết bị rađa trên tàu ngầm, cho nên về mặt này giá trị sử dụng tàu ngầm quan sát bằng rađa không còn lớn nữa.

(2) Tàu ngầm thả lôi (hoặc gọi là tàu ngầm thủy lôi - ngư lôi).

Tàu ngầm thả lôi là sử dụng thiết bị thả lôi chuyên dùng để thả thủy lôi trên mặt nước hoặc dưới nước. Nó cũng có lắp vũ khí ngư lôi để có thể tiến hành công kích ngư lôi đối với tàu địch nhưng năng lực công kích yếu hơn nhiều so với tàu ngầm ngư lôi.

Về mặt lịch sử đã từng xuất hiện tàu ngầm thả lôi chuyên dùng. Hiện nay loại tàu ngầm thả lôi chuyên dùng này đã không còn được đóng mới nữa mà dùng ống phóng ngư lôi của tàu ngầm ngư lôi để chấp hành loại nhiệm vụ thả ngư lôi này.

(3) Tàu ngầm vận tải.

Tàu ngầm vận tải là lợi dụng thiết bị chuyên dùng lắp trong khoang tàu hoặc trên thượng tầng kiến trúc để vận chuyển vật tư thể lỏng hoặc thể rắn để cung cấp bổ sung nhiên liệu, vũ khí đạn dược cho tàu chiến trên biển vận chuyển bộ đội đổ bộ.

So sánh giữa tàu ngầm vận tải với tàu vận tải trên mặt nước ưu điểm của nó chủ yếu là: tàu ngầm vận tải có thể không bị sự ảnh hưởng của điều kiện thời tiết trên biển, hàng hành trên tuyến hàng hải xác định, nhất là có thể đi dưới lớp băng, đi vào cửa cảng bị đóng băng mà những tàu thường không đi vào được, trong những năm tháng chiến tranh việc vận chuyển vật tư tác chiến và bộ đội có tính ẩn nấp lớn nhất; do khi tàu ngầm hàng hành ở dưới nước không có sức cản của sóng, theo sự tăng cao của tốc độ hàng hành ưu điểm của nó được hiện ra đột xuất, còn tàu trên mặt nước công suất đẩy tới cần thiết lại tăng lên mãnh liệt theo sự tăng lên của tốc độ hàng hành của tàu.

Do tính kinh tế của việc đóng mới và vận hành còn tồn tại một số vấn đề và nhu cầu đối với loại tàu ngầm này chưa đạt đến mức độ bức thiết, cho nên đến nay sự phát triển của tàu ngầm vận tải còn chậm chạp.

(4) Tàu cứu sinh lặn sâu (DSRV viết tắt Deep-Submergence Rescue Vehicle)

Tàu cứu sinh lặn sâu là một loại tàu ngầm bỏ túi nhỏ có công dụng đơn lẻ, dùng để thực thi tác nghiệp cứu sinh thuyền viên của tàu ngầm gặp nạn (ngồi chìm dưới đáy biển). Khi cứu sinh lợi dụng dụng cụ nối tiếp hình chuông ở bộ phận dưới tàu ngầm cứu sinh lặn sâu để đấu khớp với miệng bệ cứu sinh của tàu ngầm để cứu thuyền viên lên tàu ngầm cứu sinh lặn sâu sau đó vận chuyển đến tàu ngầm khác hoặc lên tàu mặt nước, như hình 1-9. 
Còn có một số tàu lặn dưới nước có chuyên dùng cho công việc khảo sát biển và công trình dưới đáy biển, vì vượt qua phạm vi tàu ngầm chiến đấu, ở đây không giới thiệu phân loại thêm. 
1.4.2. PHÂN LOẠI THEO LƯỢNG CHIẾM NƯỚC CỦA TÀU NGẦM

Thông thường là theo lượng chiếm nước lớn hay nhỏ của tàu ngầm để phân chia tàu ngầm có bốn cấp là cấp tàu lớn, vừa, nhỏ và loại bỏ túi.

1. Tàu ngầm cỡ lớn.

Hiện nay coi lượng chiếm nước trên 2.000 tấn là tàu ngầm cỡ lớn, tầm hoạt động lớn hơn 10.000 hải lý, có năng lực tiến hành hoạt động chiến đấu ven bờ biển kẻ địch và trên tuyến giao thông đại dương xa căn cứ của mình. Lượng dự trữ vũ khí lớn, thiết bị thông tin quan sát đầy đủ… do đó có năng lực hoạt động chiến đấu rất mạnh.

2. Tàu ngầm cỡ vừa.

Tàu ngầm có lượng chiếm nước ở giữa 1.000 ~ 2.000 tấn được liệt vào tàu ngầm cỡ vừa. Tầm hoạt động của nó ở giữa 5.000 ~ 10.000 hải lý có thể hoạt động ở biển vừa và xa. Do bị sự hạn chế của dung tích thân tàu, trong tình trạng bình thường yếu hơn so với tàu ngầm cỡ lớn, khí tài quan sát thông tin không đầy đủ như tàu cỡ lớn nhưng nó cũng có uy lực chiến đấu rất lớn.

3. Tàu ngầm cỡ nhỏ.

Tàu ngầm có lượng chiếm nước nhỏ hơn giữa 1.000 tấn gọi là tàu ngầm cỡ nhỏ. Tầm hoạt động của nó nhỏ hơn 5.000 hải lý thích nghi dùng ở vùng biển vừa và gần, vùng biển chật hẹp hoặc vùng nước cạn. Vũ khí của nó trang bị tương đối yếu, đồng thời thông thường không có lượng dự trữ do đó năng lực công kích tương đối yếu.

Nhưng tiếng ồn nhỏ của tàu ngầm cỡ nhỏ khó bị kẻ địch phát hiện, tiện việc tiếp cận mục tiêu tiến hành công kích, giá đóng mới thấp, tiện việc đóng mới với lượng lớn, trong thời chiến có thể áp dụng chiến thuật tập trung thành nhóm để bù đắp cho khuyết điểm uy lực yếu do công kích đơn lẻ, do đó ở mặt nào đó có chỗ độc đáo của nó.

4. Tàu ngầm bỏ túi.

Lượng chiếm nước của tàu ngầm bỏ túi chỉ khoảng mười mấy tấn, tầm hoạt động rất có hạn, chỉ có thể hoạt động ở khu vực nước cạn ven bờ hoặc hoạt động ở gần tàu mẹ có mang theo tàu ngầm bỏ túi. Nhưng nó đơn giản, dễ chế tạo, mục tiêu nhỏ, lại có thể chấp hành một số nhiệm vụ đặc biệt. Thí dụ ở gần bờ nước nông, đường tàu đi chật hẹp, eo biển quanh co; ven lục địa, giữa các đảo để vận chuyển một ít nhân viên trinh sát đổ bộ, tiến hành trinh sát căn cứ địch, chấp hành các nhiệm vụ chiến đấu như phá hoại căn cứ và tập kích tàu ở bến đậu.

Nhân tố ảnh hưởng đến độ lớn nhỏ của lượng chiếm nước tương đối nhiều, chẳng hạn như tốc độ hàng hành, độ lớn nhỏ của tầm hoạt động, chủng loại và số lượng của vũ khí trang bị nhiều hay ít, hình thức trang trí động lực và mức độ tiên tiến của các loại kỹ thuật trang bị, cho nên dùng độ lớn nhỏ của lượng chiếm nước để phân chia tàu ngầm sẽ không thể phản ảnh tất cả đặc tính tàu ngầm của cấp tàu đó, cách chia như vậy chỉ có khái niệm tương đối về lớn nhỏ.



1.4.3. PHÂN LOẠI THEO TUYẾN HÌNH THÂN TÀU

1. Tàu ngầm kiểu thường quy. 
Từ hình bên trên của hình 10-1 có thể thấy, hình dạng mặt bên của nó rất giống với tàu chiến trên mặt nước, loại tuyến hình này thích nghi hàng hành trên mặt nước. Để giảm thấp sức cản của sự tạo sóng ( wave-making resistance) để nâng cao tốc độ hàng hành trên mặt nước, sống mũi ( stem) của nó được làm thành đầu nhọn giống như của tàu chạy trên mặt nước. Sống mũi có độ yên ngựa ( sheer) rất lớn và có bố trí khoang lực nổi ( air tank, flotation tank) để cho tàu ngầm trên mặt biển sóng gió có thể có tính thích ứng hàng hải tương đối tốt ( seaworthiness).

Thời kỳ ban đầu, trạng thái hàng hành trên mặt nước của tàu ngầm là chủ yếu, trạng thái hàng hành ở dưới nước là phụ, do đó phần lớn đều dùng loại tuyến hình này, còn gọi là tàu ngầm kiểu hạm đội. Loại tuyến hình này bất lợi đối với tính tốc độ nhanh ở dưới nước của tàu ngầm.

Theo sự nâng cao của năng lực chống ngầm, tàu ngầm dần dần chuyển thành trạng thái hàng hành dưới mặt nước là chính, người ta triển khai công việc nghiên cứu tuyến hình cao tốc ở dưới mặt nước của tàu ngầm. Sự cải tiến sơ bộ là bỏ độ yên ngựa ở sóng mũi ( sheer at steem), khoang lực nổi ( air tank, flotation tank), loại bỏ góc nghiêng trước của sóng mũi làm cho nó thành sóng mũi thẳng từng bước hình thành, hiện nay thường áp dụng tuyến hình tàu ngầm kiểu thường quy như trong hình dưới trong hình 1-10.

2. Tàu ngầm dạng giọt nước (tear drop hull )

Người ta trải qua một loạt các thí nghiệm chứng minh tuyến hình hàng hành ở dưới nước có sức cản nhỏ nhất, hiệu suất đẩy tới cao nhất là bộ phận mũi có dạng phỏng theo hình bước đầu vệ tròn (hammersely, ), tức là dạng giọt nước. Mặt cắt ngang của nó hầu như mặt tiết diện tròn đồng đều, như hình 1-11.

Từ lâu, trước đây hơn hai ngàn năm con người đã biết được tính ưu việt thân vỏ của công cụ ở dưới nước làm phỏng theo hình búa. Có tàu ngầm ở đầu thế kỷ 20 vì muốn công suất máy điện và nguồn năng lượng ắc quy có hạn để nhận được tốc độ hàng hành ở dưới mặt nước tận dụng khả năng cao, đã từng áp dụng loại tuyến hình này, nhưng lúc đó tàu ngầm động lực thường quy còn chưa giải quyết những vấn đề động cơ điêden làm việc ở dưới mặt nước, phần lớn thời gian tàu ngầm phải nổi lên mặt nước, vả lại tính năng hàng hành trên mặt nước của tuyến hình này rất kém, do đó loại tuyến hình này từng có một đoạn thời gian không được áp dụng nữa.

Trong Thế Chiến II , người ta đã nhận thức được tính quan trọng của tính năng ở dưới mặt nước của tàu ngầm. Theo đà phát triển của công nghiệp, nhất là sự ứng dụng trên tàu ngầm của thiết bị động lực hạt nhân thì việc nâng cao tính năng dưới mặt nước của tàu ngầm lại trở thành phương hướng cố gắng chủ yếu, tuyến hình tốt nhất thích hợp tốc độ cao ở dưới nước là dạng giọt nước mới lại được áp dụng rộng rãi.

3. Tàu ngầm dạng quá độ.

Xét đến tàu ngầm động lực thường quy bị sự hạn chế của thiết bị động lực, nó cần phải thường xuyên nổi lên mặt nước hoặc hàng hành ở trạng thái ống thông khí cách mặt nước ở độ sâu nhất định, lúc này tàu ngầm phải bị ảnh hưởng sức cản của sự tạo sóng ( wave-making resistance). Vì xét đến tính năng hàng hành trên mặt nước của tàu ngầm động lực thường quy, lại phải nâng cao tính tốc độ cao ở dưới nước nên đã xuất hiện tuyến hình dạng quá độ (hình 1-12). Loại tuyến hình này là kết hợp lại với nhau giữa bộ phận mũi thường quy với bộ phận đuôi dạng giọt nước, tính năng hàng hành trên mặt nước trội hơn dạng giọt nước, còn tính năng hàng hành dưới mặt nước trội hơn dạng thường quy. 

1.4.4. PHÂN LOẠI THEO HÌNH THỨC KẾT CẤU

CỦA THÂN TÀU NGẦM

1. Tàu ngầm thân một vỏ (single-hull submarine).

Như hình 1-13 thấy được, xem từ mặt cắt ngang, thân tàu của tàu ngầm thân một vỏ là do thân vỏ chịu được áp lực tạo thành, kết cấu thân tàu tương đối đơn giản. Khoang chứa thể lỏng các loại công dụng của tàu ngầm và thiết bị toàn bộ bố trí bên trong tàu, bên trong buồng khoang rõ ràng là rất chật hẹp, tạo nên điều kiện làm việc và ăn ở của thuyền viên rất kém, và cũng hạn chế bố trí trang bị với số lượng lớn. Xem từ hình dáng bên ngoài của tàu, tuyến hình thân tàu chịu được áp lực là uốn cong vì vậy bị sự hạn chế của công nghệ chế tạo, cộng thêm một loạt các lỗ mở trên thân tàu chịu được áp lực ở khoang chứa thể lỏng và lồi ra ngoài khó làm cho tuyến hình thân tàu được trơn tru, cho nên loại kết cấu thân tàu này ảnh hưởng đến việc nâng cao tốc độ  hành hải của tàu ngầm. 
2. Tàu ngầm thân tàu hình yên ngựa.

Cái gọi là tàu ngầm thân nửa vỏ là mặt ngoài của thân tàu chịu được áp lực còn có bộ phận được bao bọc một lớp kết cấu chịu được áp lực hoặc không chịu được áp lực, lợi dụng không gian hình thành giữa kết cấu hai lớp để bố trí khoang chứa chất lỏng chủ yếu, như hình 1-14.

So sánh giữa tàu ngầm thân nửa vỏ và tàu ngầm thân một vỏ thì không gian bên trong đã được cải thiện, tuyến hình bộ phận bên ngoài cùng bộ phận được cải thiện. Nhưng do phần đáy của thân vỏ chịu được áp lực lộ ra bên ngoài, bố trí cửa van thông ra biển ở dưới đáy cũng dễ bị va chạm hư hỏng sinh ra sự cố, cho nên khi tàu ngầm chìm ngồi dưới đáy biển cần phải chú ý, đề phòng hư hỏng những bộ phận này.

3. Tàu ngầm thân hai vỏ.

Mặt ngoài của thân tàu chịu được áp lực của tàu ngầm thân hai vỏ toàn bộ bị bao bọc bởi vỏ ngoài chịu được áp lực hoặc không chịu được áp lực, như vậy bù đắp được khuyết điểm của thân nửa vỏ như hình 1-15. Lớp vỏ ngoài này ở bộ phận giữa tàu ( midship) có một đoạn chịu được áp lực, còn lại đều là kết cấu loại nhẹ không chịu được áp lực gọi là vỏ ngoài nhẹ. Khi chế tạo vỏ ngoài nhẹ dễ gia công uốn, dễ làm cho tuyến hình của tàu ngầm trơn tru, thỏa mãn yêu cầu về mặt tính năng động lực chất lỏng, vỏ ngoài nhẹ cũng có tác dụng bảo vệ thân tàu trong và các thiết bị bố trí ở bên ngoài thân tàu chụ được áp lực, nâng cao được tuổi thọ của tàu ngầm. Tàu ngầm đóng mới hiện đại phần lớn là loại kết cấu này.  
4. Tàu ngầm kiểu hỗn hợp thân hai vỏ đơn.

Trên loại tàu ngầm này kết cấu thân vỏ đơn và thân vỏ đôi được ứng dụng hỗn hợp như trong hình 1-16.

Tàu ngầm hiện đại phổ biến là xuất phát từ việc cải thiện tính năng ở dưới nước, tìm cách giảm nhỏ diện tích bề mặt thấm ướt để nâng cao tốc độ hàng hành dưới nước.

Tàu ngầm ở tình trạng dung tích nổi cố định không biến đổi, thỏa mãn yêu cầu lực nổi dự trữ một lượng nhất định để cho lượng chiếm nước toàn bộ cố gắng nhỏ của tàu ngầm, có thể đạt được mục đích giảm nhỏ bề mặt thấm nước. Áp dụng kết cấu hỗn hợp thân hai vỏ đơn là để đạt đến mục đích này. Hiện nay theo sự nâng cao của trình độ gia công, cũng có năng lực tiến hành uốn cong theo yêu cầu của tuyến hình cho vật liêu tấm thân vỏ tàu chịu được áp lực, đồng thời một số khuyết điểm của tàu ngầm thân vỏ đơn ( single sheel submarine) có thể do kết cấu của bộ phận kết cấu thân vỏ đôi (kép) bổ khuyết, cho nên tàu ngầm tốc độ nhanh cỡ lớn hiện nay áp dụng kiểu loại kết cấu này tương đối nhiều.

Ngoài mấy loại hình thức kết cấu kể trên, còn có các hình thức kết cấu kiểu tổ hợp nhiều hình trụ tròn, kiểu tổ hợp thân chịu được áp lực hình cầu, nhưng hiện nay trên tàu ngầm chiến đấu chưa được sử dụng rộng rãi.



1.4.5. PHÂN LOẠI THEO THIẾT BỊ ĐỘNG LỰC CỦA TÀU NGẦM

1. Tàu ngầm động lực thường quy.

Thiết bị động lực hợp thành bởi động cơ điêden, động cơ điện và cụm ắc quy gọi là thiết bị động lực thường quy. Loại thiết bị động lực này sử dụng trên tàu ngầm đã có lịch sử lâu dài, trước khi xuất hiện thiết bị động lực hạt nhân, trên căn bản tàu ngầm đều áp dụng loại thiết bị động lực này, do đó tàu ngầm dùng loại thiết bị động lực này gọi là tàu ngầm động lực thường quy hoặc gọi là tàu ngầm chân vịt - điện. 
2. Tàu ngầm động lực hạt nhân.

Nói một cách đơn giản, nồi hơi nguyên tử cộng với máy tuốc bin khí là thiết bị động lực của tàu ngầm hạt nhân. Máy điêden và cụm ắc quy ở trên tàu ngầm hạt nhân được coi là sự ứng dụng động lực bổ trợ trên tàu ngầm động lực hạt nhân.

Do năng lượng của động lực hạt nhân vô cùng lớn, khi làm việc lại không cần có oxy cho nên nhiều tính năng của tàu ngầm năng lượng hạt nhân ưu thế hơn tàu ngầm động lực thường quy. Nhưng trọng tải ( tonnage) của tàu ngầm thường quy nhỏ, giá thành chế tạo thấp, chu kỳ đóng tàu ngắn, thích hợp dùng hoạt động ở biển gần và biển vừa, lại tiện cho việc trang bị số lượng lớn cho quân đội trong thời chiến. Cho nên tàu ngầm động lực thường quy hiện nay và sau này trong thời gian dài vẫn là lực lượng quan trọng của hải quân.

Ngoài hai loại thiết bị động lực điển hình kể trên, còn có một số thiết bị động lực kiểu khác, như AIP, dùng pin nhiên liệu ,do chưa được ứng dụng rộng rãi nên không phân loại ở đây .