Điền cô đĩnh 田姑艇
VỀ ĐỊA DANH “VẠN
LÝ TRƯỜNG SA”
TRONG TÁC
PHẨM HẢI NGOẠI KỶ
SỰ
Phạm Hoàng
Quân
Hải
Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển
Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy
đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi
trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác,
không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963
không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần
phân tích cặn kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản
dịch, dẫn đến việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận
văn hoặc bài nghiên
cứu.
Bản dịch Huế ra đời cách nay đã 50 năm, các dịch giả thời ấy có thể chưa mấy
quan tâm đến các yếu tố dính dáng đến địa lý trong ký sự này. Ngày nay, trong
điều kiện tư liệu khá hơn, chúng tôi xem lại các bản gốc chữ Hán, so sánh chúng
và đối chiếu bản dịch với các bản gốc, tạm thời điều chỉnh mấy chỗ sơ suất trong
bản dịch Huế 1963, và bên cạnh cũng bổ sung các thông tin mới (sau 1963) cùng
một số chú thích cho rõ nghĩa
hơn.
Nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự đề cập nhiều lãnh vực, khảo sát này chỉ chú
trọng và tìm hiểu riêng về những yếu tố liên quan đến lộ trình và địa danh, qua
đó nhằm phân tích điểm hợp lý hoặc không hợp lý trong những điều được ghi chép
bởi chính tác
giả.
I. Khái lược
về văn
bản
Hải Ngoại Kỷ
Sự (6 quyển), Thanh/1695 – Thích Đại
Sán.
海外紀事 - 清 康煕三十五年 - 釋大汕
Haiwai Jishi – Qing/
1695 – Shi Da
Shan
Record of events of
Overseas
Bút ký, ghi chép của tăng
nhân Quảng Đông sau chuyến đi đến xứ Đàng Trong (Miền Trung Việt Nam), về nhân
vật, phong tục, vật sản, tín ngưỡng và những điều nghe thấy trên
đường.
Lời tựa của Đại Việt Quốc
vương Nguyễn Phước Chu (阮福週), đề
tháng 5 năm Bính tý (1696); lời Tựa của người ở Dũng Giang là Cừu Triệu Ngao
(仇兆鼇), đề
tháng Giêng năm Khang Hi kỷ mão (1699); lời Tựa của người ở Ngô Giang là Từ Cửu
(徐 [金九]), không
đề năm; lời Tựa của người ở Tấn Lăng là Mao Đoan Sĩ (毛端士) đề tháng
8 năm Khang Hi kỷ mão
(1699).
Đại Sán, họ Từ
(徐) tên
Thạch Liêm (石濂), pháp
hiệu Đại Sán, hiệu Hán Ông Hoà thượng (厂翁和尚), người
Ngô Huyện, Giang Tô, tu ở chùa Trường Thọ, Quảng Đông. Lai lịch có nhiều thuyết,
hành tung khá phức tạp. Mùa xuân năm Khang Hi ất hợi, đến Đại Việt do được Chúa
Nguyễn Đàng Trong mời sang thuyết
pháp.
Hải Ngoại Kỷ Sự qua ghi nhận
trong “Tứ Khố Tổng Mục Đề
Yếu”:
史部三十四
地理類存目七
海外紀事
六卷
浙江巡撫採進本
國朝釋大汕撰。大汕廣東長壽寺僧。康熙乙亥春。大越國王阮福週。聘往說法。越歲而歸。因記其國之風土。以及大洋往來所見聞。大越國者。其先世乃安南贅壻。分藩割據。遂稱大越。卷前有阮福週序。題丙子蒲月。蓋康熙三十五年也。
Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu,
Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7:
Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển
Bản do Tuần phủ Chiết Giang tìm
được dâng
lên.
Sách do Thích Đại Sán triều ta
[Thanh] soạn. Đại Sán là Tăng nhân chùa Trường Thọ, mùa xuân năm Ất Hợi được
Quốc vương Đại Việt Nguyễn Phúc Chu mời sang thuyết pháp. Qua một năm trở về,
nhân ghi chép về phong thổ nước ấy, cùng những điều tai nghe mắt thấy khi qua
lại biển lớn. Nước Đại Việt, nguyên đời trước là rể của [chúa]
An Nam,
phân cõi chiếm cứ, xưng hiệu Đại Việt. Trước sách có lời Tựa của Nguyễn Phúc
Chu, đề tháng 5 năm Bính Tý, nhằm năm Khang Hi thứ
35.
|
Các phần liên quan
đến Vạn
Lý Trường Sa, xem
trong:
Quyển 3, tờ 23b,
24a.
Quyển 4, tờ 16a ; tờ
21b
Các bản Hải Ngoại Kỷ Sự đã xuất
bản và lưu
hành:
* Bản nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng
Mục, Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7.
Quân chú: Sách được nhập Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục không phải là sách thuộc <>, mà chỉ lưu tên sách và mấy dòng đề yếu, bản
sách nằm trong kho, chờ đọc duyệt hoặc tiếp tục thẩm định nội dung coi có điều
gì trái với quan điểm Thanh đình hay không, chưa được chép nhân bản hoặc khắc in
nhân bản. Do không phân biệt được Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục (sách tổng mục lục)
và <> (sách tập hợp thành tùng thư) là 2 bộ phận khác
nhau nên giới nghiên cứu Việt Nam thường hay gắn
sách Hải Ngoại Kỷ Sự thuộc
<> cho có vẻ quan trọng.
Gần đây, tiêu biểu như Thạc sĩ Trần Văn Quyến trong bài
viết: “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012 ].
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, hiện tàng Bắc Kinh Đồ Thư Quán.
[北京圖書館藏清康煕寶鏡堂刊本]
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, lời Bạt của Phó Tăng Tương. [清康煕寶鏡堂刊本傅增湘跋] (theo Trung Quốc Cổ Tịch Thiện
Bản Thư Mục- Sử bộ, quyển 6, tờ 60a.)
* Bản khắc in: không đề năm và nơi
khắc in, hiện tàng (Nhật Bản) Đông Dương Văn Khố [The Toyo
Bunko – Oriental Library/東洋文庫藏本].
* Hải Ngoại
Kỷ Sự, trong tùng thư <>, tập thứ 6, Thượng
Hải: Thượng Hải Tiến Bộ Thư Cục, (?) [海外纪事, 屬 叢書 <<筆記小說大觀>>,第六輯,第六函, 上海進步書局]
* Bản in: “Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển”, Thích Đại Sán soạn, in trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Trần Kinh Hoà biên trứ, thuộc <>, Đài Bắc: Trung Hoa Tùng Thư Uỷ Viên Hội – Đài
Loan Thư Điếm, 1960. (phần Hải Ngoại Kỷ Sự được in chụp từ
bản Đông Dương Văn Khố).
[Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Shi qi shi ji Guang nan zhi xin shi
liao, Chen Jinghe bian zhu, <>, Taibei : Zhonghua
cong shu wei yuan hui : Taiwan shu dian zong jing xiao, 1960.
/ 海外纪事
六卷 ,(清)释大汕著
載中
“十七世紀廣南之新史料”,陳荊和编著,<<中華叢書>>,台北:中華叢書委員會: 台灣書店總經銷,
1960.(影印東洋文庫藏本) ].
Quân chú: Sách này gồm 160 trang, chia làm 2 phần, phần khảo cứu về Hải Ngoại
Kỷ Sự của Trần Kinh Hoà và phần nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự (in chụp).
Do ông Trần Kinh Hoà đặt cho sách nhan đề “ Sử liệu mới về Quảng Nam hồi thế kỷ
17”, nên dễ bị lầm tưởng đây chỉ là một tập sử liệu tổng
hợp.
* Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh)
Đại Sán trứ, Dư Tư Lê điểm hiệu (giới thiệu và chấm câu), thuộc tùng thư
<>, Bắc Kinh: Trung
Hoa Thư Cục, 1987, 2000. [ Haiwai Jishi – (Qing) Da Shan write, Yu Sili
introduce, in <>, Beijing:
Zhonghua Shuji, 1987,
2000./ 海外紀事,(清)大汕 著 - 余思黎 點校,<<中外交通史籍叢刊 >>, 北京: 中華書局,1987,2000.].
Quân chú: Bản in này là một sách in chung 2 tác phẩm: phần trước là An Nam
Chí Lược của Lê Tắc, do Võ Thượng Thanh (武尚清)
điểm hiệu, 447 trang, phần sau là Hải Ngoại Kỷ Sự, Dư Tư Lê điểm hiệu,
140
trang.
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch
Xuất bản xã, 1995. (ảnh ấn
bản)
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Sơn Đông: Tề Lỗ Thư Xã xuất bản,
1997. (ảnh ấn
bản).
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Đại Sán soạn, trong tùng
thư <>, ảnh ấn bản (Khang Hi) Bảo Kính Đường khắc bản
cất tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã,
2002. [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan
zhuan, in <> , ju
Beijing Tu Shu Guan cang Qing Kangxi Bao Jing Tang ke ben ying yin, Shanghai :
Shanghai Guji chu ban she, 2002 / 海外纪事六卷(清)释大汕 撰, <<續修四庫全書>>,據北京圖書館藏清康熙寶鏡堂刻本影印,上海 : 上海古籍出版社, 2002.]
Bản dịch sang Việt văn [bản
dịch Huế
1963]:
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Thích Đại Sán soạn,
Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Trần Kinh Hoà viết bài Khảo cứu, Viện Đại
Học Huế - Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Huế, 1963. [ dịch
theo bản Đông Dương Văn Khố]. (Bìa trong của bản dịch ghi sai là “Toàn bộ: 7
quyển”, gần đây Nguyễn Văn Đăng sai theo, xem Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,
số 1, 2012, tr.115.)
II. Tóm tắt lộ
trình.
Đêm 15 tháng Giêng [rằm Thượng
Nguyên] năm Ất Hợi ( Khang Hi thứ 34 – Tây lịch: 27/2/1695) Đại Sán cùng tuỳ
tùng 50 người lên thuyền tại Hoàng Phố, thuyền quá tải, đoàn người chia hai tốp,
một tốp ở lại chờ chuyến sau, Đại Sán đi trong chuyến
đầu.
Ngày 16 tháng Giêng, ngang qua
Đông Hoản, Hổ Môn, Việt Hải quan, Ô Trữ Sơn, Lỗ Mạn Sơn. [hải phận Quảng Đông,
Thanh]
Ngày 27 tháng Giêng, đến Cù lao
Chàm, vào Hội An, đổi
thuyền.
Ngày
28 tháng Giêng, tới Thuận Hoá. Trú ở chùa Thiền
Lâm.
Ngày
13 tháng 3, tốp thứ hai tới Thuận
Hoá.
Ngày
mùng 1 tháng 7, Đại Sán trở lại Hội
An.
Ngày
mùng 2 tháng 7, Đại Sán tới Hội An. Trú tại chùa Di
Đà.
Ngày
19 tháng 7, Đại Sán lên thuyền buôn rời Hội An, về Quảng
Đông.
Ngày
20 tháng 7, sáng, đến Cù lao Chàm, nghỉ tạm chờ
gió.
Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra
khơi.
Ngày
mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm, sau vài hôm
trở vào Hội
An.
Ngày
12 tháng 10, theo đường bộ ra Thuận Hoá, qua đèo Hải
Vân.
Ngày
Rằm tháng 10, sáng, đến cửa biển Thuận An, có thuyền chờ sẵn, lên thuyền, tối,
tới chùa Thiên Mụ. Lần này đến Thuận Hoá trú tại chùa Thiên
Mụ.
Hải Ngoại Kỷ Sự chép
rõ ngày tháng chỉ đến
đây.
Lịch trình chuyến về Quảng Đông không thấy Đại Sán chép rõ như chuyến đi. Liên
quan đến chuyến về chỉ thấy qua các chi tiết tản mác
trong:
1/
Lời Tựa của [Chúa] Nguyễn Phước Chu, đề “Tháng 5 (Bồ nguyệt) năm Bính tý”,
và trong lời Tựa cũng viết: “Hoà thượng trích lục một số việc, góp lại thành
tập, nhan đề Hải Ngoại Kỷ Sự, lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta
viết bài tựa”. (HNKS, Tựa, Bản dịch Huế, 1963,
tr.10)
2/
Trong quyển 5, sau rằm tháng 10 năm ất hợi, Đại Sán gặp chúa Nguyễn, nhân trong
lúc nói chuyện, ngỏ ý xin tài trợ năm ngàn vàng (五千金 / ngũ
thiên kim ?) để trùng tu chánh điện chùa Trường Thọ ở Quảng Đông, chúa hứa góp,
nhưng muốn biết lai lịch chùa này. Đại Sán về viết một bài văn sớ kể lại nhơn
duyên trùng tu, đem dâng. “Vương duyệt
xem lá sớ, gật đầu nói rằng: ‘ Mùa
xuân sau Lão Hoà thượng về, thay ta xây cất điện đường chùa Trường
Thọ’.” (Bản
dịch Huế, 1963,
tr.204)
3/
Giữa quyển 3, Đại Sán viết: “Mùng 3
tháng 6 [ất hợi], cáo từ Quốc Vương, định đến ngày 15 sẽ xuống Hội An, liệu lý
đường về cho kịp mùa gió thu.” (Bản dịch Huế,
tr.125)
4/
Cuối quyển 6, Đại Sán viết chung chung là: “Mùa
xuân năm Ất Hợi đến nước Đại Việt, định ở qua một năm, ngày về đã định vào tiết
đầu thu.”(Bản dịch
Huế,
tr.234)
Như căn cứ vào HNKS thì không biết cụ thể ngày về của Đại Sán, chỉ biết đại khái
là sau tháng 5 năm Bính
Tý.
Trong bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà in chung trong bản dịch HNKS, thấy ông
Trần căn cứ vào các báo cáo của thuyền buôn nộp cho quan chức Quảng Đông, cho
biết Đại Sán rời bến Hội An vào ngày 22 hoặc 24 hoặc 26 tháng 6 và về đến Quảng
Đông độ giữa tháng 7 năm Bính Tý
(1696).
Tóm lại, qua lịch trình chuyến đi từ Quảng Châu đến Thuận Hoá và chuyến về hụt
từ Cù lao Chàm vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1695, chúng ta có thể biết được
thương thuyền chở Đại Sán đã đi theo con đường biển ngoài khơi ngang qua phía
đông đảo Quỳnh Châu. Trong HNKS, tên Vạn Lý Trường Sa được đề cập hai lần, tên
Trường Sa được đề cập hai lần, nằm trong ba đoạn
văn.
Những điều phải lưu ý là, tại đoạn văn quan trọng có nói đến khoảng cách [canh,
dặm] giữa Hội An với Vạn Lý Trường Sa thì Đại Sán đã không ghi chép ở góc độ
trực tiếp mà là nghe kể lại. Ở hai đoạn khác, địa danh Vạn Lý Trường Sa và
Trường Sa được nói đến trong lần Đại Sán trở về không
thành.
III. Về
ba đoạn văn liên quan đến địa danhVạn
Lý Trường
Sa.
Các đoạn nguyên tác dùng để khảo
sát trong bài viết này căn cứ
vào:
* bản in khắc Hải Ngoại
Kỷ Sự 6 quyển lưu tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, bản chụp PDF lưu hành trên
mạng.
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại [Nhật Bản] Đông Dương Văn Khố, in chụp,
trong Thập
Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Đài Loan
Thư Điếm xuất bản,
1960.
* bản gõ chữ điện tử (phồn
thể) Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Dư Tư Lê giới thiệu và chấm câu, Trung Hoa
Thư Cục xuất bản,
2000.
Các đoạn nguyên tác dưới
đây được gõ lại từ bản Đông Dương Văn Khố, đối chiếu bản Bắc Kinh Đồ Thư Quán,
đối chiếu và chấm câu theo cách chấm câu của Dư Tư
Lê.
1/
Đoạn văn thứ
nhất.
Nếu đúng như thông lệ ghi chép ký sự, tức ghi theo lịch trình, thì đoạn văn liên
quan đến Vạn Lý Trường Sa sẽ được đề cập trong bối cảnh vào tháng giêng, lúc
thương thuyền chở Đại Sán đang lênh đênh trên biển, trên tuyến đường từ Lỗ Mạn
Sơn hướng đến Cù Lao Chàm, và đoạn văn này- tương ứng với lộ trình - sẽ thuộc
đầu quyển 1 của kỷ sự. Nhưng thực tế ghi chép trong HNKS không phải như vậy,
đoạn văn liên quan Vạn Lý Trường Sa được chép ở giữa quyển 3, trong bối cảnh:
thời gian khoảng cuối tháng 5 ; địa điểm tại nhà khách chùa Thiền Lâm ở Thuận
Hoá, do Đại Sán nghe một người khách kể chuyện và ghi lại, toàn văn như
sau:
“客有言:歸帆風信,須及立秋前後半月,西南風猛,一帆風順四五日夜便抵虎門.處暑後北風漸起,水向東流,南風微弱,不敵東歸流急,難保為穩便矣.蓋洋海中橫亘沙磧,起東北直抵西南,高者璧立海上,低或水平沙面,粗硬如鐵,船一觸即成虀粉.闊百許里,長無算,名萬里長沙.渺無草木人煙,一失風水漂至,縱不破壞,人無水米,亦成餒鬼矣.去大越七更路,七更約七百里也.先國王時,歲差澱舍往拾壞船金銀器物云.秋風潮涸,水盡東洄,一浪所湧,即成百里,風力不勁,便有長沙之憂.”
(海外紀事 - 卷三,頁23後24前)
Bản dịch Huế 1963
(tr.125):
“ Khách có người bảo, mùa
gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết Lập thu; chừng
ấy, gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể
đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bắc dần dần thổi lên, nước chảy về
hướng đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy
sẽ khó giữ được ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài
từ đông bắc qua tây nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang
mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát
rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “vạn lý
trường sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước
tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà
thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm.[1] Thời
Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá [2] đi dọc theo bãi cát,
lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút
về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức
gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ trường
sa.”
Đính
chính:
[1] Câu trong nguyên văn: “khứ
Đại Việt thất canh lộ, thất canh ước thất bách lý [去大越七更 路,七更約七百里也.]”. Trong câu
này có hai điểm sai, một của người dịch và một của người
viết.
Lỗi của bản dịch đã được
chủ nhân blog Đông A nêu ra hồi năm 2009 (ngày 14 tháng 3), rằng thất
canh nếu dịch sát nghĩa thì phải là bảy canh, không thể dịch
là bảy ngày, đây là phát hiện đúng và quan trọng về một lỗi sai rất cần
được điều chỉnh.1
Lỗi của người viết (Đại
Sán) là quy đổi sai cách tính canh sang dặm. Câu văn này dịch sát
nghĩa sẽ là : “Khoảng ấy cách Đại Việt bảy canh, bảy canh ước chừng bảy trăm lý
(dặm)”. Đọc lại toàn đoạn văn trích nêu trên, chúng ta thấy Đại Sán chỉ nghe mà
viết lại, điều này cũng chứng tỏ ông ta chưa biết gì về Vạn Lý Trường Sa, nội
dung HNKS còn cho thấy Đại Sán không từng đi biển, các lý do này dẫn đến việc
ước đoán, quy đổi canh sang dặm có sự chênh lệch quá lớn so với quy chuẩn đương
thời.
Đương thời, canh trong hàng
hải tuy được hiểu như là một lượng từ, là đơn vị tính lộ trình đường thuỷ, nhưng
trên thực tế, vận tốc thuyền buồm đi biển phải chịu sự lệ thuộc vào sức gió nên
loại đơn vị này không thể cho tương đương với số lý (dặm) cụ thể được,
sách Đông Tây Dương Khảo (1617) do Trương Nhiếp viết - trước HNKS 80 năm
– cho biết: “ Như muốn biết đường đi xa gần bao nhiêu, lấy chuẩn một ngày đêm
[trong điều kiện] gió thuận là 10 canh, ước đi được mấy canh, thì biết tới xứ
nào.”2. Trong Minh
Sử (1737) cũng có đoạn nói về canh: “Đường thuỷ, gặp gió thuận, từ Kê Lung,
Đạm Thuỷ [bắc Đài Loan] đến cảng Phúc Châu [Phúc Kiến] 5 canh thì tới. Từ cảng
Đài Loan đến đảo Bành Hồ 4 canh thì tới…Bởi đường biển không thể đo tính bằng lý
(dặm), nên người đi biển chia một ngày đêm làm 10 canh, rồi theo số canh mà tính
ra dặm đường.”3. Trong Hải Quốc Văn
Kiến Lục (1730), Trần Luân Quýnh nói có vẻ cụ thể hơn: “ …[thuật đi biển
của] Trung Quốc dùng la bàn, vạch đồng hồ cát, coi gió lớn nhỏ thuận nghịch mà
đọ số canh, mỗi canh đường thuỷ ước chừng 60 lý, gió lớn mà thuận thì tính thêm,
nước triều cao gió nghịch thì giảm xuống, coi theo đó thì biết đến xứ
nào.”4.
Qua các ghi chép về canh
và dặm trên đây ta thấy được cách tính khá thống nhất của người đi biển, mỗi
ngày đêm chia ra 10 canh, mỗi canh đi được trên dưới 60 lý [~ 30 km]. Các ghi
chép này đều rất gần với thời điểm ra đời HNKS, Đại Sán không rành việc đi biển
nên ước chừng mỗi canh = 100 lý, chênh lệch quá
xa.
[2] Nguyên văn viết: điến
xá [澱舍], bản dịch
dịch là thuyền
đánh cá. Trong HNKS, thấy có bốn loại
thuyền của xứ Đàng Trong được chép theo dạng tên riêng, gồm: điền cô đĩnh
[田姑艇], hồng
thuyền [紅船], mã
tào/tàu [馬艚], điến xá
[澱舍]. Trong
bốn loại này, điền cô đĩnh được mô tả là loại thuyền đánh cá; hồng thuyền là
loại thuyền quan dụng, hình dáng thon dài như thuyền rồng, có 64 tay chèo; mã
tàu là thuyền đi nhanh nhất; điến xá là loại thuyền lớn nhất (có lẽ chuyên dụng
cho việc chở hàng hoá). Tôi chưa khảo sát thật kỹ và so sánh mở rộng về các ghi
chép này, tuy nhiên, sơ bộ cho thấy nên dịch điến xá là thuyền
lớn có lẽ hợp với bối cảnh đoạn văn hơn dịch là thuyền đánh cá. Để
làm sáng tỏ vấn đề này, cần phải có các cuộc điền dã ven biển từ vùng Hội An đến
Thuận An để tìm hiểu xem tên ghe tàu hoặc các bộ phận ghe tàu mà dân đi biển
ngày nay quen gọi có liên hệ gì về mặt ngữ âm so với tên bốn loại thuyền kể trên
hay không.
Lưu ý, bản
dịch không viết hoa các địa danh “vạn lý trường sa” và “trường sa”, cũng có thể
do lỗi sắp
chữ.
2/
Đoạn văn thứ
hai.
Đoạn văn này được viết trong bối cảnh lần về không thành, thuyền buôn chở Đại
Sán khởi hành tại Tiêm Bích La (Cù lao Chàm) vào sáng ngày 30 tháng 7 năm 1695
(chép trong Quyển
4):
“是時船正疾行皆不理論而南吹漸微舟所進幾與所退相敵頃刻大雨北風猛作勢不可支舉船盡以長沙為憂.余披依持咒久之東南一陣颶風陡起黑夜雲霾手不見掌各倉惶聽命總管見龍行隱隱飛舞於船左右約一更龍去從前北風所飄流之路須臾盡復風雨後海光天色照灼遠近至是而歸心始灰矣平明霽色見山痕澹澹不數十里外仍是尖碧蘿也隨風竟返至山港舟人擊鼓賽神各加額曰餘生再造也”
(海外紀事 - 卷四, 頁16前-後)
Bản dịch Huế
(tr.161):
“lúc
ấy thuyền đang đi mau, chẳng để ý bàn giải. Gió nam thổi dịu dần, thuyền chạy
vát tới vát lui, chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng chốc mưa lớn, gió bắc thổi
mạnh, thế không chạy tới được, cả thuyền đều lo ngại vì quãng đường Trường Sa
(Bãi dài). [1] Ta khoát y vào niệm chú. Hồi lâu, phía đông nam một trận gió
bão nổi lên, đêm tối mây mù, ngữa bàn tay chẳng thấy. Mọi người đều sảng hồn,
mường tượng trông thấy rồng bay múa hai bên thuyền, ước chừng một canh, rồng bay
đi. Khoảng đường gió bắc thổi đi nảy giờ, trong giây phút đã thấy thuyền trở lại
chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời sắc biển sáng suốt gần xa; đến đây lòng về đã
nguội lạnh hết
vậy.
Sáng ngày, mây tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách chừng vài mươi
dặm, vẫn thấy đảo Tiêm Bích
La. Theo
gió xuôi vào sơn cảng, người trong thuyền đánh trống tạ thần, đều giơ tay lên
trán nói rằng: ‘Thực
là sống sót’.”
Lưu
ý
[1] Trong đoạn văn này “Trường
Sa” được hiểu như địa danh, xem đoạn văn 1 và 3 “vạn lý trường sa” không viết
hoa.
3/
Đoạn văn thứ
ba.
Đoạn văn này có nội dung gần giống đoạn 2 (trên). Mấy ngày sau khi thoát nạn trở
lại Hội An, Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn, kể lại tình cảnh của lần về không
thành (chép trong quyển
4):
“及上洋艚秋經白露船主夥長皆言北風甚急帆不能放老僧持咒祈請南風次日西南風起擊鼓鳴鑼揚帆出海經兩晝夜北風漸作行莫能前於是再祈午後南吹滿篷*正發巾頂疾行時忽然北風飛浪大雨傾盆龍騰蛟起地覆天翻幾乎有萬里長沙魚腹之患矣余惟默坐持咒正在慌忙無措處陡作一陣東風將船送回碧蘿山下.”
(海外紀事 - 卷四, 頁21前-後)
* bản
khắc in chữ Bồng bộ Trúc [篷],
bản Dư Tư Lê gõ chữ Bồng bộ Thảo [蓬]
Bản
dịch Huế
(tr.167):
“Đến
lúc Lão tăng lên tàu, tiết thu đã muộn. Thuyền chủ và đồng bạn [1] đều
bảo rằng gió bắc thổi mạnh, chẳng khá buông buồm. Lão tăng niệm chú cầu gió nam.
Qua ngày sau, gió tây nam thổi lên, trống đánh chiêng hồi, dương buồm ra
biển, đi được hai ngày đêm, [2] gió bắc lại thổi lên, thuyền không đi
được. Lão tăng lại cầu gió. Chiều lại gió nam thổi thẳng buồm. Thuyền đương đi
rất mau, bỗng gió bắc nổi dậy, mưa như trút vò, rắn múa rồng bay, trời long đất
lỡ, cơ hồ giữa bãi dài muôn dặm, [3] chẳng khỏi bụng cá chôn thây. Ta chỉ
ngồi lặng thinh niệm chú. Trong lúc hoang mang bó tay chờ chết, bỗng một trận
gió đông nam đưa thuyền trở lại đảo Tiêm Bích La.[4]”
Đính
chính
[1]
Lỗi dịch, nguyên văn viết Khoả trưởng [夥長],
dịch đồng bạn là không chính xác, Khoả trưởng là một cách gọi người giữ
la bàn, trực canh việc định hướng cho
tàu.
[2]
Lỗi viết, câu đi được hai ngày đêm không ăn khớp với số ngày cũng do Đại
Sán viết ở những đoạn khác, ở các đoạn khác ghi chép cho thấy thời gian ra đi và
giạt trở về chỉ “một
ngày đêm” [Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi. Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị
gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm (xem phần II, Tóm tắt lộ trình)].
Qua chi tiết này, thấy Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn không trung
thực.
[3] Câu này
cho thấy người dịch không xem Vạn Lý Trường Sa là địa danh , nên đã dịch là “bãi
dài muôn
dặm”.
[4]
Lỗi dịch, nguyên văn viết: Bích La Sơn hạ [dưới (chân núi) Bích LaSơn], dịch
là đảo
Tiêm Bích La chưa chính
xác lắm, tuy nhiên,
do có sự đồng danh Tiêm Bích La – Bích La Sơn – Cù lao Chàm, nên đây là lỗi nhỏ,
không làm sai ý nguyên tác.
IV. Tóm
tắt một số trích dẫn và nhận định liên
quan.
1/
Quan điểm của Trần Kinh
Hoà
Bài khảo cứu của Giáo sư Trần Kinh Hoà in chung bản dịch Hải Ngoại Kỷ
Sự (1963) đã khảo sát khá kỹ về văn bản, về tiểu sử tác giả và cuộc du hành
Quảng Nam của Thích Đại Sán. Cũng như nhóm dịch giả, ông Trần Kinh Hoà giới
thiệu sách này ở góc độ tư liệu lịch sử văn hoá, các yếu tố về địa lý, địa danh
không được lưu ý. Tuy nhiên, đến năm 1989, ông Trần đã có dịp nhắc lại HNKS dưới
góc nhìn thời sự thuộc vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo trên biển Đông.
Bài viết “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố” (Nhật
ngữ) của Trần Kinh Hoà được đăng trên tạp chí nghiên cứu thuộc một đại học Nhật
Bản.5 Như tiêu đề của bài
viết “Quần
đảo Tây Sa và Nam Sa- Nhìn lại lịch sử”6,
ông Trần điểm lược một số tư liệu trong lịch sử do người Trung Quốc, Việt Nam và
phương Tây ghi chép có liên quan đến vấn đề khám phá, khai thác và xác lập chủ
quyền do Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành. Quan điểm của ông Trần trong phạm
vi toàn bài viết 20 trang này- theo phát biểu của ông – chỉ trên cơ sở liệt kê
sử liệu, với lập trường không nhận định chúng theo các hướng tranh chấp. Đoạn
văn thuộc quyển 3 của HNKS (đoạn văn thứ nhất trong bài viết này) được trích dẫn
và xếp chung trong nhóm tư liệu thuộc ghi chép của các nhà hàng hải ngoại quốc
qua lại Vạn Lý Trường Sa, đối với đoạn văn này, qua cách sắp xếp sử liệu tương
liên, thấy được chủ ý của ông Trần liệt nó vào loại tư liệu trung tính. Ở phần
kết luận bài viết, thấy có đoạn: “Mục
đích đó [việc ra đảo định kỳ] rõ ràng là thu gom những đồ vật còn sót lại của
tàu bị nạn và thu thập đồi mồi, hải sâm và vỏ sò, [điều đó] không có nghĩa là đã
có người Việt Nam sinh sống dài hạn trên đảo”, kết luận
này thuộc về phần phân tích và nhận định của ông Trần, khá dài, sở dĩ tôi trích
tạm đoạn này vì nó liên quan đến lập luận trong nhiều bài viết của một số tác
giả Việt Nam khi dựa vào câu: “Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh
cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào” để củng
cố bằng chứng chủ
quyền.
Trên đại thể, bài viết của
Giáo sư Trần mang tinh thần yêu chuộng hoà bình, mong mỏi các quốc gia xung
quanh biển Đông tìm những giải pháp ôn hoà và tôn trọng luật pháp quốc tế. Tuy
nhiên, trong cách trưng dẫn tư liệu và kèm theo nhận định ở phần kết luận rằng
“các kế hoạch thực thi chủ quyền của phía Việt Nam đã dừng lại bởi sự qua đời
của vua Minh Mạng [nguyên văn viết nhầm là Tự Đức] vào năm 1841”, nhận định này
của ông Trần có thể mang đến những cách hiểu không mấy thuận lợi cho Việt
Nam.
2/
Quan điểm của Lãng Hồ (Giáo sư Nguyễn Khắc
Kham).
Là người đầu tiên sử dụng đoạn văn có liên quan đến địa danh Trường Sa
trong việc chứng minh chủ quyền của Chúa Nguyễn, tác giả Lãng Hồ
đã trích dẫn nhiều đoạn thuộc quyển 1, quyển 3 và quyển 4 trong
Hải Ngoại Kỷ Sự. Lãng Hồ nêu quan điểm: “trong
khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đã được hành sử dưới nhiều hình thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè
ngoại quốc, thiết lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân
của các dân chài bản xứ đối với hai quần đảo đó”7. Việc
trích dẫn và quan điểm của Lãng Hồ được rất nhiều tác giả về sau ủng hộ và phát
triển.
3/
Quan điểm của Dư Tư
Lê.
Dư Tư Lê là người viết bài giới thiệu và chấm câu cho bản in HNKS
do Trung Hoa Thư Cục xuất bản
năm 1987 và tái bản
năm 2000. Bản in
này không có phần chú giải, quan điểm của Dư Tư Lê nằm ở bài giới thiệu. Trong
một đoạn của bài giới thiệu sách, Dư Tư Lê phê phán quan điểm của Lãng Hồ, cho
rằng việc căn cứ vào Hải Ngoại Kỷ Sự để lập luận về “chủ quyền” của Đại Việt là
không thuyết phục. Tuy nhiên, họ Dư không trực tiếp đi vào phân tích lý do thế
nào là không thuyết phục của các ghi chép ấy mà lại trưng dẫn bài viết “Thất
Châu Dương khảo” của Hàn Chấn Hoa, đại ý nói rằng sách Mộng Lương
Lục 8 từ thời Tống đã xác định
chủ quyền của Trung Hoa trên vùng biển phía nam, từ Thất Châu Dương [Hoàng Sa/
Tây Sa] đến Côn Lôn Dương. Bị ảnh hưởng bởi các tác giả đi trước như Hàn Chấn
Hoa, Quách Vĩnh Phương v.v, Dư Tư Lê chỉ lập lại kiểu đối chọi tư liệu để kết
luận chủ quan, đáng lẽ phải đi sâu phân tích trực tiếp các nội dung được ghi
chép bởi Đại Sán, đây là chỗ yếu kém trong bài nghiên cứu tổng quan về sách Hải
Ngoại Kỷ Sự
này.
Ngoài ra, trong những điều
liên quan trực tiếp đến các địa danh trên biển Đông ghi chép trong Hải Ngoại
Kỷ Sự, độc giả có thể đọc thêm công trình “Thích Đại Sán Cập Kỳ Việt Nam Chi
Hành/ Thích Đại Sán và chuyến đi đến
Việt Nam” của thầy
trò Đái Khả Lai - Vu Hướng Đông, in trong Trung Ngoại quan hệ sử luận
tùng, Tập thứ tư, 1992. 9
Vài lời
kết
Trong Hải Ngoại Kỷ Sự, lời
lẽ của Đại Sán tuy huênh hoang ma mị nhưng dù sao nó vẫn là một tập bút ký có
dựa trên thực tế. Các ghi chép về quan hệ đời tư giữa Đại Sán với Chúa Nguyễn
cùng các quan chức Nam Hà lộ rõ vẻ kênh kiệu khoe khoang quá đáng của tác giả,
tuy những ghi chép mô tả phong tục, địa lý tuy có chút sai lệch nhưng cơ bản vẫn
thấy được sự xác thực. Riêng các đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường
Sa qua ghi chép trong lộ trình của Đại Sán, qua phân tích, chúng ta thấy rằng dù
tác giả có nhầm lẫn về quy ước chuyển đổi đơn vị nhưng con số bảy canh tương
đương với 420 lý (~ 210 km) rõ ràng là khá phù hợp với khoảng cách từ đất liền
đến quần đảo Hoàng
Sa.
Sử dụng các loại tư liệu bên ngoài nhằm bổ sung, củng cố cho các lập luận trong
các bài viết, luận văn về vấn đề chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối
với vùng biển Đông và các quần đảo là việc làm rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải
có sự thận trọng và chính xác, mặt khác cũng chỉ nên sử dụng trong chừng mực nào
đó. Khi sử dụng các loại tư liệu này, như trường hợp sách Hải Ngoại Kỷ
Sựchẳng hạn, chúng ta cần phải cân nhắc và kiểm tra, hiệu khám thật kỹ các
đoạn văn có liên quan. Một khi sử dụng bản dịch, việc xem xét lại và điều chỉnh
những sơ suất là rất cần, các dịch giả trước đây không phải là yếu kém nhưng khi
dịch một bộ sách một pho sách phải chịu sự chi phối bởi thời gian hoặc nhiều
lĩnh vực mà nguyên tác đề cập, có thể người dịch không chuyên chú vào các yếu tố
chuyên sâu về địa lý nên dẫn đến sai sót.
Theo dõi quá trình nghiên cứu học thuật của học giới Trung Quốc cũng là một
phương diện phải quan tâm, trên bình diện chung, các nghiên cứu của họ đối với
thư tịch Hán văn cổ dĩ nhiên là sâu sát và nhiều thành tựu so với chúng ta.
Nhưng riêng về các loại tư liệu liên quan đến biển Đông thì lại khác, khi đụng
tới chủ đề này, tinh thần dân tộc cực đoan đã khiến cho sự trung thực trong
nghiên cứu khoa học của họ bị xem nhẹ, nhận ra được sự gượng gạo trong lập luận
hoặc kết luận võ đoán của học giới Trung Quốc, chúng ta mới có thể vững vàng,
linh hoạt hơn khi tiếp thu và phân tích các loại sử liệu này trong phương diện
chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam trên biển
Đông.
Cái Bè, ngày 2 tháng 8 năm
2012.
P.H.Q.
Chú
thích
1. Không
hiểu sao có một số bài viết hiểu lầm, cho rằng tôi (Phạm Hoàng Quân) đã phát
hiện lỗi dịch này và đăng trên blog Đông A. Nhân đây xin nói cho rõ, phát hiện
này là do chủ nhân blog Đông
A.
Cũng cần nói thêm một việc để rút kinh nghiệm, sai sót trong bản dịch đoạn văn
này đã được nêu ra cách nay mấy năm, mà gần đây, Thạc sĩ Trần Văn Quyến lại vẫn
sử dụng đoạn văn dịch sai này [lại không ghi nguồn dịch] trong bài
viết “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012
].
2. Đông Tây
Dương Khảo, Quyển 9- Chu sư khảo, nguyên
văn: “如欲度 道里遠近多少, 凖一晝夜風利所至為十更, 約行幾更可到某處.”
3. Minh
Sử, Quyển 323- Ngoại quốc truyện, 4,
Kê Lung, nguyên văn: “水道順風自雞籠淡水至福州港口五更可達自臺灣港至彭湖嶼四更可達蓋海道不可以里計舟人分一晝夜為十更故以更計道里云.”
4. Hải Quốc
Văn Kiến Lục, Nam Dương Ký, nguyên văn:
“中國用羅 經,刻漏沙, 以風大小順逆較更數, 每更約水程六十里, 風大而順 則培累之, 潮頂 風逆則減退之, 亦知某處.”
5. Trần
Kinh Hoà, “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố”[西沙群島与南沙群島-歷史的回顧 , 陳荊和] , tạp chí
“Nghiên cứu Châu Á Đại học Soka”, 3/1989, Số 10, tr.
49-69, Tokyo:
Đại học Soka.
6. Phần viết
này tham khảo bản Hoà văn và bản dịch Việt văn của nhóm dịch giả: Nghiêm Minh
Quang, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phạm Thị Thu Giang, Võ Đức Thắng
[ bản dịch này chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình chỉnh sửa và hiệu đính, lưu
hành nội bộ trong Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông.]
7. Lãng Hồ,
“Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập san Sử Địa, Số 29- Đặc khảo về
Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1/1975, tr.54-112.
8. Mộng Lương Lục, 20 quyển,
Tống/+1275 – Ngô Tự Mục (?-?)
[夢梁錄 - 宋 - 吳自牧/Meng
Liang
Lu – Song/
+1275 - Wu Zimu
The Past seems a Dream
(description of the capital, Hangzhou)].
Bút ký học thuật, ghi chép về địa lý, phong thổ, luật tục, văn hoá nghệ thuật
vùng Hàng Châu. 20 quyển phân làm 169 điều mục, thu thập nhiều tư liệu ngoài sử.
Tiểu sử tác giả không rõ. Mộng Lương
Lục là một trong 8 sách được dẫn dụng trong “Văn
kiện xác định chủ quyền” do Bộ Ngoại Giao nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa
công bố ngày
30.1.1980.
9. 戴可來 - 于向東, 釋大汕及其越南之行,載於: 中外關系史論叢 -第四輯 ,
1992.
-------------------------
Bài đăng trên Tạp chí điện tử Diễn
Đàn, 5 tháng Chín 2012 / www.diendan.org/.../ve-dia-danh-van-lu-truong-sa-trong-hai-ngoai-ky-su .
In trong Tạp chí Nghiên cứu và
Phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 6 (95).
2012.
Hải ngoại ký sự 海外紀事 của Thích
Đại Sán tức Thạch Liêm (1633 - 1704) 釋大汕 là một tài liệu khá cần thiết trong
việc nghiên cứu hàng hải và tàu thuyền dân tộc . Một số chỗ cần góp ý
.
Tr 48 " Gần trưa , khia thuyền
, gió xuôi, nước thuận , thuyền đi mau như bay.Còn cách Hồ Môn chừng một dặm ,
thuyền bỗng mắc cạn; lỗi do người coi lái tự ý làm tài., không theo đường lối do
thuyền con chỉ dẫn . Bánh lái mắc kẹt ở dưới, thuyền không tiến được; gió đè ở
trên, buồm chưa kịp thả lèo. Một tiếng ầm, thuyền nghiêng một bên , ve thuyền
chấm nước ,ai nấy đều thất sắc, cầm chắc thuyền phải vỡ tan. Vội vã xả buồm ,
mọi người đứng về phía trên gió, ba chiếc thuyền con và mấy trăm người lôi kéo,
thuyền vần chẳng nhúc nhích chút nào. ....Xét chỗ có tiếng ầm lúc nãy , thấy
miếng ván giáp đà (phụ bánh lái ) bị gãy, vĩ lư (chỗ xỏ bánh lái ) cũng hơi xẻ
nứt ....
tr 59 " Ngày 24, thuyền chủ viết lên cột buồm máy chữ lớn
như sau " Ai thấy núi trước, thưởng tiền một quan " .Mọi người đều hớn hở , tỏ ý
vui mừng . Trên thuyền có thủy thủ tên A Ban , người An Nam , chưa đầy 20 tuổi
,cường tráng lanh lẹn, mỗi lúc treo buồm, hắn leo tuốt lên ngọn cột , giăng dây
thắt đõi, qua lại như đi đất bằng ; hắn vừa đứng trước mặt , ngó lên đã thấy
ngồi trên đọt buồm .Suốt ba ngày còn tít mù, chẳng thấy bóng núi. Qua ngày 27 ,
gần đúng Ngọ ,có người reo lớn trên đầu cột :Kia kìa, núi đó rồi ! Người đó
chính là A Ban vậy
tr 117 " Quốc vương đã ra lệnh cho thuyền "điển xá " (
thuyền đánh ca đón tiếp đồ đệ và hành lý
Điển xá 澱舍 theo Phạm Hòang Quân là thuyền lớn ; Phân tích
澱 điến âm Bắc Kinh là diàn cặn,
thuốc nhuồm chàm ; 舍 xá shè , quán trọ , nhà ; Tra cứu thì thấy ý của PH Quân là
đúng hơn
tr 190 " Đến ngày 28, chừng canh ba, Cai bá , Giám quan
bắt "hồng thuyền " và thuyền điển xá , mỗi thứ 8 chiếc để chở chuyên hành lý .
Tra trên mạng thì hình như chỉ dùng trong Hải ngoại kỷ sự để chỉ con
thuyền
Hồng thuyền 紅船.hóng chuán Theo mạng Wiki Zh , đó là loại
thuyền phổ biến tại Quảng Đông dùng cho các gánh hát , thân thuyền sơn đỏ . Có
buồng cho các diễn viên
tr 190 " Đầu thuyền ngồi một vị quan , đuôi thuyền đứng
một người cầm lái , giữa thuyền sáu mươi bốn quân nhân đứng chèo , giữa khoang
thuyền có bốn cọc nạng sơn son, trên bắc ngang một cây mõ gỗ, một người lính
ngồi gõ mõ làm nhịp cho những người đứng chèo ...Thuyền dài và hẹp như hình long
chu , mũi cất cao , đuôi thuyền sơn đỏ , giữa không thấy để bếp nấu ..
tr 207 " Cai bá khởi ba hồi trống lệnh, các thuyền đều
lên chèo . Trong thuyền đèn lửa tắt hết . Cai bá đứng trước mũi thuyền , cầm một
dây hỏa mai ra hiệu ; hoặc bát hoặc cạy , khi chậm khi mau , các thuyền đều ngó
theo hỏa hiệu lái chèo , chẳng hề sai chạy .
tr 230 " Một chiếc tàu hiệu mã tào (tàu ngựa) ra biển
chạy trước thuyền ta mấy ngày , bữa nay cũng lui trở lại . Tàu ấy có tiếng chạy
hay nhất trên biển , bạn thuyền cũng tinh nhuệ , đến nay đã ba lần ra chạy , đều
phải trở lui ; Bởi vậy mọi người đều quyết ý "áp đông " (tức chờ qua mùa
đông)
Mã tào 馬艚 Mǎ cáo Phân tích 艚 gồm bộ 舟 chu và 曹 tào -
nhóm, bầy đàn , họ Tào .Không tìm thấy chữ này qua Google ; chỉ thấy 马槽 bộ mộc
với nghĩa là cái máng ngựa !
Ngoài ra còn có các tên thuyền :
Điền cô đĩnh 田姑艇
VỀ ĐỊA DANH “VẠN
LÝ TRƯỜNG
SA”
TRONG TÁC
PHẨM HẢI NGOẠI KỶ
SỰ
Phạm Hoàng
Quân
Hải
Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển
Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy
đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi
trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác,
không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963
không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần phân tích cặn
kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản dịch, dẫn đến
việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận văn hoặc bài
nghiên
cứu.
Bản dịch Huế ra đời cách nay đã 50 năm, các dịch giả thời ấy có thể chưa mấy
quan tâm đến các yếu tố dính dáng đến địa lý trong ký sự này. Ngày nay, trong
điều kiện tư liệu khá hơn, chúng tôi xem lại các bản gốc chữ Hán, so sánh chúng
và đối chiếu bản dịch với các bản gốc, tạm thời điều chỉnh mấy chỗ sơ suất trong
bản dịch Huế 1963, và bên cạnh cũng bổ sung các thông tin mới (sau 1963) cùng
một số chú thích cho rõ nghĩa
hơn.
Nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự đề cập nhiều lãnh vực, khảo sát này chỉ chú
trọng và tìm hiểu riêng về những yếu tố liên quan đến lộ trình và địa danh, qua
đó nhằm phân tích điểm hợp lý hoặc không hợp lý trong những điều được ghi chép
bởi chính tác
giả.
I. Khái lược
về văn bản
Hải Ngoại Kỷ
Sự (6 quyển), Thanh/1695 – Thích Đại
Sán.
海外紀事 - 清 康煕三十五年 - 釋大汕
Haiwai Jishi – Qing/ 1695
– Shi Da
Shan
Record of events of
Overseas
Bút ký, ghi chép của tăng nhân
Quảng Đông sau chuyến đi đến xứ Đàng Trong (Miền Trung Việt Nam), về nhân vật,
phong tục, vật sản, tín ngưỡng và những điều nghe thấy trên
đường.
Lời tựa của Đại Việt Quốc
vương Nguyễn Phước Chu (阮福週), đề
tháng 5 năm Bính tý (1696); lời Tựa của người ở Dũng Giang là Cừu Triệu Ngao
(仇兆鼇), đề
tháng Giêng năm Khang Hi kỷ mão (1699); lời Tựa của người ở Ngô Giang là Từ Cửu
(徐 [金九]), không
đề năm; lời Tựa của người ở Tấn Lăng là Mao Đoan Sĩ (毛端士) đề tháng
8 năm Khang Hi kỷ mão
(1699).
Đại Sán, họ Từ
(徐) tên
Thạch Liêm (石濂), pháp
hiệu Đại Sán, hiệu Hán Ông Hoà thượng (厂翁和尚), người
Ngô Huyện, Giang Tô, tu ở chùa Trường Thọ, Quảng Đông. Lai lịch có nhiều thuyết,
hành tung khá phức tạp. Mùa xuân năm Khang Hi ất hợi, đến Đại Việt do được Chúa
Nguyễn Đàng Trong mời sang thuyết
pháp.
Hải Ngoại Kỷ Sự qua ghi nhận trong
“Tứ Khố Tổng Mục Đề
Yếu”:
史部三十四
地理類存目七
海外紀事
六卷
浙江巡撫採進本
國朝釋大汕撰。大汕廣東長壽寺僧。康熙乙亥春。大越國王阮福週。聘往說法。越歲而歸。因記其國之風土。以及大洋往來所見聞。大越國者。其先世乃安南贅壻。分藩割據。遂稱大越。卷前有阮福週序。題丙子蒲月。蓋康熙三十五年也。
Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu,
Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7:
Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển
Bản do Tuần phủ Chiết Giang tìm
được dâng
lên.
Sách do Thích Đại Sán triều ta
[Thanh] soạn. Đại Sán là Tăng nhân chùa Trường Thọ, mùa xuân năm Ất Hợi được
Quốc vương Đại Việt Nguyễn Phúc Chu mời sang thuyết pháp. Qua một năm trở về,
nhân ghi chép về phong thổ nước ấy, cùng những điều tai nghe mắt thấy khi qua
lại biển lớn. Nước Đại Việt, nguyên đời trước là rể của [chúa]
An Nam,
phân cõi chiếm cứ, xưng hiệu Đại Việt. Trước sách có lời Tựa của Nguyễn Phúc
Chu, đề tháng 5 năm Bính Tý, nhằm năm Khang Hi thứ
35.
|
Các phần liên quan
đến Vạn
Lý Trường Sa, xem
trong:
Quyển 3, tờ 23b,
24a.
Quyển 4, tờ 16a ; tờ
21b
Các bản Hải Ngoại Kỷ Sự đã xuất
bản và lưu
hành:
* Bản nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng
Mục, Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7.
Quân chú: Sách được nhập Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục không phải là sách thuộc <>, mà chỉ lưu tên sách và mấy dòng đề yếu, bản
sách nằm trong kho, chờ đọc duyệt hoặc tiếp tục thẩm định nội dung coi có điều
gì trái với quan điểm Thanh đình hay không, chưa được chép nhân bản hoặc khắc in
nhân bản. Do không phân biệt được Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục (sách tổng mục lục)
và <> (sách tập hợp thành tùng thư) là 2 bộ phận khác
nhau nên giới nghiên cứu Việt Nam thường hay gắn
sách Hải Ngoại Kỷ Sự thuộc
<> cho có vẻ quan trọng.
Gần đây, tiêu biểu như Thạc sĩ Trần Văn Quyến trong bài
viết: “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012 ].
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, hiện tàng Bắc Kinh Đồ Thư Quán.
[北京圖書館藏清康煕寶鏡堂刊本]
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, lời Bạt của Phó Tăng Tương. [清康煕寶鏡堂刊本傅增湘跋] (theo Trung Quốc Cổ Tịch Thiện
Bản Thư Mục- Sử bộ, quyển 6, tờ 60a.)
* Bản khắc in: không đề năm và nơi
khắc in, hiện tàng (Nhật Bản) Đông Dương Văn Khố [The Toyo
Bunko – Oriental Library/東洋文庫藏本].
* Hải Ngoại
Kỷ Sự, trong tùng thư <>, tập thứ 6, Thượng
Hải: Thượng Hải Tiến Bộ Thư Cục, (?) [海外纪事, 屬 叢書 <<筆記小說大觀>>,第六輯,第六函, 上海進步書局]
* Bản in: “Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển”, Thích Đại Sán soạn, in trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Trần Kinh Hoà biên trứ, thuộc <>, Đài Bắc: Trung Hoa Tùng Thư Uỷ Viên Hội – Đài
Loan Thư Điếm, 1960. (phần Hải Ngoại Kỷ Sự được in chụp từ
bản Đông Dương Văn Khố).
[Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Shi qi shi ji Guang nan zhi xin shi
liao, Chen Jinghe bian zhu, <>, Taibei : Zhonghua
cong shu wei yuan hui : Taiwan shu dian zong jing xiao, 1960.
/ 海外纪事
六卷 ,(清)释大汕著
載中
“十七世紀廣南之新史料”,陳荊和编著,<<中華叢書>>,台北:中華叢書委員會: 台灣書店總經銷,
1960.(影印東洋文庫藏本) ].
Quân chú: Sách này gồm 160 trang, chia làm 2 phần, phần khảo cứu về Hải Ngoại
Kỷ Sự của Trần Kinh Hoà và phần nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự (in chụp).
Do ông Trần Kinh Hoà đặt cho sách nhan đề “ Sử liệu mới về Quảng Nam hồi thế kỷ
17”, nên dễ bị lầm tưởng đây chỉ là một tập sử liệu tổng
hợp.
* Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh)
Đại Sán trứ, Dư Tư Lê điểm hiệu (giới thiệu và chấm câu), thuộc tùng thư
<>, Bắc Kinh: Trung
Hoa Thư Cục, 1987, 2000. [ Haiwai Jishi – (Qing) Da Shan write, Yu Sili
introduce, in <>, Beijing:
Zhonghua Shuji, 1987,
2000./ 海外紀事,(清)大汕 著 - 余思黎 點校,<<中外交通史籍叢刊 >>, 北京: 中華書局,1987,2000.].
Quân chú: Bản in này là một sách in chung 2 tác phẩm: phần trước là An Nam
Chí Lược của Lê Tắc, do Võ Thượng Thanh (武尚清)
điểm hiệu, 447 trang, phần sau là Hải Ngoại Kỷ Sự, Dư Tư Lê điểm hiệu,
140 trang.
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch
Xuất bản xã, 1995. (ảnh ấn
bản)
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Sơn Đông: Tề Lỗ Thư Xã xuất
bản, 1997. (ảnh ấn
bản).
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Đại Sán soạn, trong tùng
thư <>, ảnh ấn bản (Khang Hi) Bảo Kính Đường khắc bản
cất tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã,
2002. [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan
zhuan, in <> , ju
Beijing Tu Shu Guan cang Qing Kangxi Bao Jing Tang ke ben ying yin, Shanghai :
Shanghai Guji chu ban she, 2002 / 海外纪事六卷(清)释大汕 撰, <<續修四庫全書>>,據北京圖書館藏清康熙寶鏡堂刻本影印,上海 : 上海古籍出版社, 2002.]
Bản dịch sang Việt văn [bản dịch
Huế 1963]:
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Thích Đại Sán soạn,
Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Trần Kinh Hoà viết bài Khảo cứu, Viện Đại
Học Huế - Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Huế, 1963. [ dịch
theo bản Đông Dương Văn Khố]. (Bìa trong của bản dịch ghi sai là “Toàn bộ: 7
quyển”, gần đây Nguyễn Văn Đăng sai theo, xem Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,
số 1, 2012, tr.115.)
II. Tóm tắt lộ
trình.
Đêm 15 tháng Giêng [rằm Thượng
Nguyên] năm Ất Hợi ( Khang Hi thứ 34 – Tây lịch: 27/2/1695) Đại Sán cùng tuỳ
tùng 50 người lên thuyền tại Hoàng Phố, thuyền quá tải, đoàn người chia hai tốp,
một tốp ở lại chờ chuyến sau, Đại Sán đi trong chuyến
đầu.
Ngày 16 tháng Giêng, ngang qua
Đông Hoản, Hổ Môn, Việt Hải quan, Ô Trữ Sơn, Lỗ Mạn Sơn. [hải phận Quảng Đông,
Thanh]
Ngày 27 tháng Giêng, đến Cù lao
Chàm, vào Hội An, đổi
thuyền.
Ngày
28 tháng Giêng, tới Thuận Hoá. Trú ở chùa Thiền
Lâm.
Ngày
13 tháng 3, tốp thứ hai tới Thuận
Hoá.
Ngày
mùng 1 tháng 7, Đại Sán trở lại Hội
An.
Ngày
mùng 2 tháng 7, Đại Sán tới Hội An. Trú tại chùa Di
Đà.
Ngày
19 tháng 7, Đại Sán lên thuyền buôn rời Hội An, về Quảng
Đông.
Ngày
20 tháng 7, sáng, đến Cù lao Chàm, nghỉ tạm chờ
gió.
Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra
khơi.
Ngày
mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm, sau vài hôm
trở vào Hội
An.
Ngày
12 tháng 10, theo đường bộ ra Thuận Hoá, qua đèo Hải
Vân.
Ngày
Rằm tháng 10, sáng, đến cửa biển Thuận An, có thuyền chờ sẵn, lên thuyền, tối,
tới chùa Thiên Mụ. Lần này đến Thuận Hoá trú tại chùa Thiên
Mụ.
Hải Ngoại Kỷ Sự chép
rõ ngày tháng chỉ đến
đây.
Lịch trình chuyến về Quảng Đông không thấy Đại Sán chép rõ như chuyến đi. Liên
quan đến chuyến về chỉ thấy qua các chi tiết tản mác
trong:
1/
Lời Tựa của [Chúa] Nguyễn Phước Chu, đề “Tháng 5 (Bồ nguyệt) năm Bính tý”,
và trong lời Tựa cũng viết: “Hoà thượng trích lục một số việc, góp lại thành
tập, nhan đề Hải Ngoại Kỷ Sự, lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta
viết bài tựa”. (HNKS, Tựa, Bản dịch Huế, 1963,
tr.10)
2/
Trong quyển 5, sau rằm tháng 10 năm ất hợi, Đại Sán gặp chúa Nguyễn, nhân trong
lúc nói chuyện, ngỏ ý xin tài trợ năm ngàn vàng (五千金 / ngũ
thiên kim ?) để trùng tu chánh điện chùa Trường Thọ ở Quảng Đông, chúa hứa góp,
nhưng muốn biết lai lịch chùa này. Đại Sán về viết một bài văn sớ kể lại nhơn
duyên trùng tu, đem dâng. “Vương duyệt
xem lá sớ, gật đầu nói rằng: ‘ Mùa
xuân sau Lão Hoà thượng về, thay ta xây cất điện đường chùa Trường
Thọ’.” (Bản
dịch Huế, 1963,
tr.204)
3/
Giữa quyển 3, Đại Sán viết: “Mùng 3
tháng 6 [ất hợi], cáo từ Quốc Vương, định đến ngày 15 sẽ xuống Hội An, liệu lý
đường về cho kịp mùa gió thu.” (Bản dịch Huế,
tr.125)
4/
Cuối quyển 6, Đại Sán viết chung chung là: “Mùa
xuân năm Ất Hợi đến nước Đại Việt, định ở qua một năm, ngày về đã định vào tiết
đầu thu.”(Bản dịch
Huế,
tr.234)
Như căn cứ vào HNKS thì không biết cụ thể ngày về của Đại Sán, chỉ biết đại khái
là sau tháng 5 năm Bính
Tý.
Trong bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà in chung trong bản dịch HNKS, thấy ông
Trần căn cứ vào các báo cáo của thuyền buôn nộp cho quan chức Quảng Đông, cho
biết Đại Sán rời bến Hội An vào ngày 22 hoặc 24 hoặc 26 tháng 6 và về đến Quảng
Đông độ giữa tháng 7 năm Bính Tý
(1696).
Tóm lại, qua lịch trình chuyến đi từ Quảng Châu đến Thuận Hoá và chuyến về hụt
từ Cù lao Chàm vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1695, chúng ta có thể biết được
thương thuyền chở Đại Sán đã đi theo con đường biển ngoài khơi ngang qua phía
đông đảo Quỳnh Châu. Trong HNKS, tên Vạn Lý Trường Sa được đề cập hai lần, tên
Trường Sa được đề cập hai lần, nằm trong ba đoạn
văn.
Những điều phải lưu ý là, tại đoạn văn quan trọng có nói đến khoảng cách [canh,
dặm] giữa Hội An với Vạn Lý Trường Sa thì Đại Sán đã không ghi chép ở góc độ
trực tiếp mà là nghe kể lại. Ở hai đoạn khác, địa danh Vạn Lý Trường Sa và
Trường Sa được nói đến trong lần Đại Sán trở về không
thành.
III. Về
ba đoạn văn liên quan đến địa danhVạn
Lý Trường
Sa.
Các đoạn nguyên tác dùng để khảo
sát trong bài viết này căn cứ
vào:
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, bản chụp PDF lưu hành trên
mạng.
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại [Nhật Bản] Đông Dương Văn Khố, in chụp,
trong Thập
Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Đài Loan
Thư Điếm xuất bản,
1960.
* bản gõ chữ điện tử (phồn
thể) Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Dư Tư Lê giới thiệu và chấm câu, Trung Hoa
Thư Cục xuất bản,
2000.
Các đoạn nguyên tác dưới đây
được gõ lại từ bản Đông Dương Văn Khố, đối chiếu bản Bắc Kinh Đồ Thư Quán, đối
chiếu và chấm câu theo cách chấm câu của Dư Tư
Lê.
1/
Đoạn văn thứ
nhất.
Nếu đúng như thông lệ ghi chép ký sự, tức ghi theo lịch trình, thì đoạn văn liên
quan đến Vạn Lý Trường Sa sẽ được đề cập trong bối cảnh vào tháng giêng, lúc
thương thuyền chở Đại Sán đang lênh đênh trên biển, trên tuyến đường từ Lỗ Mạn
Sơn hướng đến Cù Lao Chàm, và đoạn văn này- tương ứng với lộ trình - sẽ thuộc
đầu quyển 1 của kỷ sự. Nhưng thực tế ghi chép trong HNKS không phải như vậy,
đoạn văn liên quan Vạn Lý Trường Sa được chép ở giữa quyển 3, trong bối cảnh:
thời gian khoảng cuối tháng 5 ; địa điểm tại nhà khách chùa Thiền Lâm ở Thuận
Hoá, do Đại Sán nghe một người khách kể chuyện và ghi lại, toàn văn như
sau:
“客有言:歸帆風信,須及立秋前後半月,西南風猛,一帆風順四五日夜便抵虎門.處暑後北風漸起,水向東流,南風微弱,不敵東歸流急,難保為穩便矣.蓋洋海中橫亘沙磧,起東北直抵西南,高者璧立海上,低或水平沙面,粗硬如鐵,船一觸即成虀粉.闊百許里,長無算,名萬里長沙.渺無草木人煙,一失風水漂至,縱不破壞,人無水米,亦成餒鬼矣.去大越七更路,七更約七百里也.先國王時,歲差澱舍往拾壞船金銀器物云.秋風潮涸,水盡東洄,一浪所湧,即成百里,風力不勁,便有長沙之憂.”
(海外紀事 - 卷三,頁23後24前)
Bản dịch Huế 1963
(tr.125):
“ Khách có người bảo, mùa gió
xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết Lập thu; chừng ấy,
gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể đến
Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bắc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng
đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy sẽ
khó giữ được ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ
đông bắc qua tây nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt
nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát
rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “vạn lý
trường sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước
tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà
thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm.[1] Thời
Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá [2] đi dọc theo bãi cát,
lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút
về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức
gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ trường
sa.”
Đính
chính:
[1] Câu trong nguyên văn: “khứ
Đại Việt thất canh lộ, thất canh ước thất bách lý [去大越七更 路,七更約七百里也.]”. Trong câu
này có hai điểm sai, một của người dịch và một của người
viết.
Lỗi của bản dịch đã được chủ
nhân blog Đông A nêu ra hồi năm 2009 (ngày 14 tháng 3), rằng thất
canh nếu dịch sát nghĩa thì phải là bảy canh, không thể dịch
là bảy ngày, đây là phát hiện đúng và quan trọng về một lỗi sai rất cần
được điều chỉnh.1
Lỗi của người viết (Đại Sán)
là quy đổi sai cách tính canh sang dặm. Câu văn này dịch sát nghĩa
sẽ là : “Khoảng ấy cách Đại Việt bảy canh, bảy canh ước chừng bảy trăm lý
(dặm)”. Đọc lại toàn đoạn văn trích nêu trên, chúng ta thấy Đại Sán chỉ nghe mà
viết lại, điều này cũng chứng tỏ ông ta chưa biết gì về Vạn Lý Trường Sa, nội
dung HNKS còn cho thấy Đại Sán không từng đi biển, các lý do này dẫn đến việc
ước đoán, quy đổi canh sang dặm có sự chênh lệch quá lớn so với quy chuẩn đương
thời.
Đương thời, canh trong hàng hải
tuy được hiểu như là một lượng từ, là đơn vị tính lộ trình đường thuỷ, nhưng
trên thực tế, vận tốc thuyền buồm đi biển phải chịu sự lệ thuộc vào sức gió nên
loại đơn vị này không thể cho tương đương với số lý (dặm) cụ thể được,
sách Đông Tây Dương Khảo (1617) do Trương Nhiếp viết - trước HNKS 80 năm
– cho biết: “ Như muốn biết đường đi xa gần bao nhiêu, lấy chuẩn một ngày đêm
[trong điều kiện] gió thuận là 10 canh, ước đi được mấy canh, thì biết tới xứ
nào.”2. Trong Minh
Sử (1737) cũng có đoạn nói về canh: “Đường thuỷ, gặp gió thuận, từ Kê Lung,
Đạm Thuỷ [bắc Đài Loan] đến cảng Phúc Châu [Phúc Kiến] 5 canh thì tới. Từ cảng
Đài Loan đến đảo Bành Hồ 4 canh thì tới…Bởi đường biển không thể đo tính bằng lý
(dặm), nên người đi biển chia một ngày đêm làm 10 canh, rồi theo số canh mà tính
ra dặm đường.”3. Trong Hải Quốc Văn
Kiến Lục (1730), Trần Luân Quýnh nói có vẻ cụ thể hơn: “ …[thuật đi biển
của] Trung Quốc dùng la bàn, vạch đồng hồ cát, coi gió lớn nhỏ thuận nghịch mà
đọ số canh, mỗi canh đường thuỷ ước chừng 60 lý, gió lớn mà thuận thì tính thêm,
nước triều cao gió nghịch thì giảm xuống, coi theo đó thì biết đến xứ
nào.”4.
Qua các ghi chép về canh và
dặm trên đây ta thấy được cách tính khá thống nhất của người đi biển, mỗi ngày
đêm chia ra 10 canh, mỗi canh đi được trên dưới 60 lý [~ 30 km]. Các ghi chép
này đều rất gần với thời điểm ra đời HNKS, Đại Sán không rành việc đi biển nên
ước chừng mỗi canh = 100 lý, chênh lệch quá
xa.
[2] Nguyên văn viết: điến
xá [澱舍], bản dịch
dịch là thuyền
đánh cá. Trong HNKS, thấy có bốn loại
thuyền của xứ Đàng Trong được chép theo dạng tên riêng, gồm: điền cô đĩnh
[田姑艇], hồng
thuyền [紅船], mã
tào/tàu [馬艚], điến xá
[澱舍]. Trong
bốn loại này, điền cô đĩnh được mô tả là loại thuyền đánh cá; hồng thuyền là
loại thuyền quan dụng, hình dáng thon dài như thuyền rồng, có 64 tay chèo; mã
tàu là thuyền đi nhanh nhất; điến xá là loại thuyền lớn nhất (có lẽ chuyên dụng
cho việc chở hàng hoá). Tôi chưa khảo sát thật kỹ và so sánh mở rộng về các ghi
chép này, tuy nhiên, sơ bộ cho thấy nên dịch điến xá là thuyền
lớn có lẽ hợp với bối cảnh đoạn văn hơn dịch là thuyền đánh cá. Để
làm sáng tỏ vấn đề này, cần phải có các cuộc điền dã ven biển từ vùng Hội An đến
Thuận An để tìm hiểu xem tên ghe tàu hoặc các bộ phận ghe tàu mà dân đi biển
ngày nay quen gọi có liên hệ gì về mặt ngữ âm so với tên bốn loại thuyền kể trên
hay không.
Lưu ý, bản
dịch không viết hoa các địa danh “vạn lý trường sa” và “trường sa”, cũng có thể
do lỗi sắp
chữ.
2/
Đoạn văn thứ
hai.
Đoạn văn này được viết trong bối cảnh lần về không thành, thuyền buôn chở Đại
Sán khởi hành tại Tiêm Bích La (Cù lao Chàm) vào sáng ngày 30 tháng 7 năm 1695
(chép trong Quyển
4):
“是時船正疾行皆不理論而南吹漸微舟所進幾與所退相敵頃刻大雨北風猛作勢不可支舉船盡以長沙為憂.余披依持咒久之東南一陣颶風陡起黑夜雲霾手不見掌各倉惶聽命總管見龍行隱隱飛舞於船左右約一更龍去從前北風所飄流之路須臾盡復風雨後海光天色照灼遠近至是而歸心始灰矣平明霽色見山痕澹澹不數十里外仍是尖碧蘿也隨風竟返至山港舟人擊鼓賽神各加額曰餘生再造也”
(海外紀事 - 卷四, 頁16前-後)
Bản dịch Huế
(tr.161):
“lúc
ấy thuyền đang đi mau, chẳng để ý bàn giải. Gió nam thổi dịu dần, thuyền chạy
vát tới vát lui, chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng chốc mưa lớn, gió bắc thổi
mạnh, thế không chạy tới được, cả thuyền đều lo ngại vì quãng đường Trường Sa
(Bãi dài). [1] Ta khoát y vào niệm chú. Hồi lâu, phía đông nam một trận gió
bão nổi lên, đêm tối mây mù, ngữa bàn tay chẳng thấy. Mọi người đều sảng hồn,
mường tượng trông thấy rồng bay múa hai bên thuyền, ước chừng một canh, rồng bay
đi. Khoảng đường gió bắc thổi đi nảy giờ, trong giây phút đã thấy thuyền trở lại
chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời sắc biển sáng suốt gần xa; đến đây lòng về đã
nguội lạnh hết
vậy.
Sáng ngày, mây tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách chừng vài mươi
dặm, vẫn thấy đảo Tiêm Bích
La. Theo
gió xuôi vào sơn cảng, người trong thuyền đánh trống tạ thần, đều giơ tay lên
trán nói rằng: ‘Thực
là sống sót’.”
Lưu
ý
[1] Trong đoạn văn này “Trường
Sa” được hiểu như địa danh, xem đoạn văn 1 và 3 “vạn lý trường sa” không viết
hoa.
3/
Đoạn văn thứ
ba.
Đoạn văn này có nội dung gần giống đoạn 2 (trên). Mấy ngày sau khi thoát nạn trở
lại Hội An, Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn, kể lại tình cảnh của lần về không
thành (chép trong quyển
4):
“及上洋艚秋經白露船主夥長皆言北風甚急帆不能放老僧持咒祈請南風次日西南風起擊鼓鳴鑼揚帆出海經兩晝夜北風漸作行莫能前於是再祈午後南吹滿篷*正發巾頂疾行時忽然北風飛浪大雨傾盆龍騰蛟起地覆天翻幾乎有萬里長沙魚腹之患矣余惟默坐持咒正在慌忙無措處陡作一陣東風將船送回碧蘿山下.”
(海外紀事 - 卷四, 頁21前-後)
* bản
khắc in chữ Bồng bộ Trúc [篷],
bản Dư Tư Lê gõ chữ Bồng bộ Thảo [蓬]
Bản
dịch Huế
(tr.167):
“Đến
lúc Lão tăng lên tàu, tiết thu đã muộn. Thuyền chủ và đồng bạn [1] đều
bảo rằng gió bắc thổi mạnh, chẳng khá buông buồm. Lão tăng niệm chú cầu gió nam.
Qua ngày sau, gió tây nam thổi lên, trống đánh chiêng hồi, dương buồm ra
biển, đi được hai ngày đêm, [2] gió bắc lại thổi lên, thuyền không đi
được. Lão tăng lại cầu gió. Chiều lại gió nam thổi thẳng buồm. Thuyền đương đi
rất mau, bỗng gió bắc nổi dậy, mưa như trút vò, rắn múa rồng bay, trời long đất
lỡ, cơ hồ giữa bãi dài muôn dặm, [3] chẳng khỏi bụng cá chôn thây. Ta chỉ
ngồi lặng thinh niệm chú. Trong lúc hoang mang bó tay chờ chết, bỗng một trận
gió đông nam đưa thuyền trở lại đảo Tiêm Bích La.[4]”
Đính
chính
[1]
Lỗi dịch, nguyên văn viết Khoả trưởng [夥長],
dịch đồng bạn là không chính xác, Khoả trưởng là một cách gọi người giữ
la bàn, trực canh việc định hướng cho
tàu.
[2]
Lỗi viết, câu đi được hai ngày đêm không ăn khớp với số ngày cũng do Đại
Sán viết ở những đoạn khác, ở các đoạn khác ghi chép cho thấy thời gian ra đi và
giạt trở về chỉ “một
ngày đêm” [Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi. Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị
gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm (xem phần II, Tóm tắt lộ trình)].
Qua chi tiết này, thấy Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn không trung
thực.
[3] Câu này
cho thấy người dịch không xem Vạn Lý Trường Sa là địa danh , nên đã dịch là “bãi
dài muôn
dặm”.
[4]
Lỗi dịch, nguyên văn viết: Bích La Sơn hạ [dưới (chân núi) Bích LaSơn], dịch
là đảo
Tiêm Bích La chưa chính
xác lắm, tuy nhiên,
do có sự đồng danh Tiêm Bích La – Bích La Sơn – Cù lao Chàm, nên đây là lỗi nhỏ,
không làm sai ý nguyên tác.
IV. Tóm
tắt một số trích dẫn và nhận định liên
quan.
1/
Quan điểm của Trần Kinh
Hoà
Bài khảo cứu của Giáo sư Trần Kinh Hoà in chung bản dịch Hải Ngoại Kỷ
Sự (1963) đã khảo sát khá kỹ về văn bản, về tiểu sử tác giả và cuộc du hành
Quảng Nam của Thích Đại Sán. Cũng như nhóm dịch giả, ông Trần Kinh Hoà giới
thiệu sách này ở góc độ tư liệu lịch sử văn hoá, các yếu tố về địa lý, địa danh
không được lưu ý. Tuy nhiên, đến năm 1989, ông Trần đã có dịp nhắc lại HNKS dưới
góc nhìn thời sự thuộc vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo trên biển Đông.
Bài viết “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố” (Nhật
ngữ) của Trần Kinh Hoà được đăng trên tạp chí nghiên cứu thuộc một đại học Nhật
Bản.5 Như tiêu đề của bài
viết “Quần
đảo Tây Sa và Nam Sa- Nhìn lại lịch sử”6,
ông Trần điểm lược một số tư liệu trong lịch sử do người Trung Quốc, Việt Nam và
phương Tây ghi chép có liên quan đến vấn đề khám phá, khai thác và xác lập chủ
quyền do Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành. Quan điểm của ông Trần trong phạm
vi toàn bài viết 20 trang này- theo phát biểu của ông – chỉ trên cơ sở liệt kê
sử liệu, với lập trường không nhận định chúng theo các hướng tranh chấp. Đoạn
văn thuộc quyển 3 của HNKS (đoạn văn thứ nhất trong bài viết này) được trích dẫn
và xếp chung trong nhóm tư liệu thuộc ghi chép của các nhà hàng hải ngoại quốc
qua lại Vạn Lý Trường Sa, đối với đoạn văn này, qua cách sắp xếp sử liệu tương
liên, thấy được chủ ý của ông Trần liệt nó vào loại tư liệu trung tính. Ở phần
kết luận bài viết, thấy có đoạn: “Mục
đích đó [việc ra đảo định kỳ] rõ ràng là thu gom những đồ vật còn sót lại của
tàu bị nạn và thu thập đồi mồi, hải sâm và vỏ sò, [điều đó] không có nghĩa là đã
có người Việt Nam sinh sống dài hạn trên đảo”, kết luận
này thuộc về phần phân tích và nhận định của ông Trần, khá dài, sở dĩ tôi trích
tạm đoạn này vì nó liên quan đến lập luận trong nhiều bài viết của một số tác
giả Việt Nam khi dựa vào câu: “Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh
cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào” để củng
cố bằng chứng chủ
quyền.
Trên đại thể, bài viết của
Giáo sư Trần mang tinh thần yêu chuộng hoà bình, mong mỏi các quốc gia xung
quanh biển Đông tìm những giải pháp ôn hoà và tôn trọng luật pháp quốc tế. Tuy
nhiên, trong cách trưng dẫn tư liệu và kèm theo nhận định ở phần kết luận rằng
“các kế hoạch thực thi chủ quyền của phía Việt Nam đã dừng lại bởi sự qua đời
của vua Minh Mạng [nguyên văn viết nhầm là Tự Đức] vào năm 1841”, nhận định này
của ông Trần có thể mang đến những cách hiểu không mấy thuận lợi cho Việt
Nam.
2/
Quan điểm của Lãng Hồ (Giáo sư Nguyễn Khắc
Kham).
Là người đầu tiên sử dụng đoạn văn có liên quan đến địa danh Trường Sa trong
việc chứng minh chủ quyền của Chúa Nguyễn, tác giả Lãng Hồ đã trích dẫn nhiều
đoạn thuộc quyển 1, quyển 3 và quyển 4 trong Hải Ngoại Kỷ Sự. Lãng Hồ nêu quan
điểm: “trong
khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đã được hành sử dưới nhiều hình thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè
ngoại quốc, thiết lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân
của các dân chài bản xứ đối với hai quần đảo đó”7. Việc
trích dẫn và quan điểm của Lãng Hồ được rất nhiều tác giả về sau ủng hộ và phát
triển.
3/
Quan điểm của Dư Tư
Lê.
Dư Tư Lê là người viết bài giới thiệu và chấm câu cho bản in HNKS
do Trung Hoa Thư Cục xuất bản
năm 1987 và tái bản
năm 2000. Bản in
này không có phần chú giải, quan điểm của Dư Tư Lê nằm ở bài giới thiệu. Trong
một đoạn của bài giới thiệu sách, Dư Tư Lê phê phán quan điểm của Lãng Hồ, cho
rằng việc căn cứ vào Hải Ngoại Kỷ Sự để lập luận về “chủ quyền” của Đại Việt là
không thuyết phục. Tuy nhiên, họ Dư không trực tiếp đi vào phân tích lý do thế
nào là không thuyết phục của các ghi chép ấy mà lại trưng dẫn bài viết “Thất
Châu Dương khảo” của Hàn Chấn Hoa, đại ý nói rằng sách Mộng Lương
Lục 8 từ thời Tống đã xác định
chủ quyền của Trung Hoa trên vùng biển phía nam, từ Thất Châu Dương [Hoàng Sa/
Tây Sa] đến Côn Lôn Dương. Bị ảnh hưởng bởi các tác giả đi trước như Hàn Chấn
Hoa, Quách Vĩnh Phương v.v, Dư Tư Lê chỉ lập lại kiểu đối chọi tư liệu để kết
luận chủ quan, đáng lẽ phải đi sâu phân tích trực tiếp các nội dung được ghi
chép bởi Đại Sán, đây là chỗ yếu kém trong bài nghiên cứu tổng quan về sách Hải
Ngoại Kỷ Sự
này.
Ngoài ra, trong những điều
liên quan trực tiếp đến các địa danh trên biển Đông ghi chép trong Hải Ngoại
Kỷ Sự, độc giả có thể đọc thêm công trình “Thích Đại Sán Cập Kỳ Việt Nam Chi
Hành/ Thích Đại Sán và chuyến đi đến
Việt Nam” của thầy
trò Đái Khả Lai - Vu Hướng Đông, in trong Trung Ngoại quan hệ sử luận
tùng, Tập thứ tư, 1992. 9
Vài lời
kết
Trong Hải Ngoại Kỷ Sự, lời
lẽ của Đại Sán tuy huênh hoang ma mị nhưng dù sao nó vẫn là một tập bút ký có
dựa trên thực tế. Các ghi chép về quan hệ đời tư giữa Đại Sán với Chúa Nguyễn
cùng các quan chức Nam Hà lộ rõ vẻ kênh kiệu khoe khoang quá đáng của tác giả,
tuy những ghi chép mô tả phong tục, địa lý tuy có chút sai lệch nhưng cơ bản vẫn
thấy được sự xác thực. Riêng các đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường
Sa qua ghi chép trong lộ trình của Đại Sán, qua phân tích, chúng ta thấy rằng dù
tác giả có nhầm lẫn về quy ước chuyển đổi đơn vị nhưng con số bảy canh tương
đương với 420 lý (~ 210 km) rõ ràng là khá phù hợp với khoảng cách từ đất liền
đến quần đảo Hoàng
Sa.
Sử dụng các loại tư liệu bên ngoài nhằm bổ sung, củng cố cho các lập luận trong
các bài viết, luận văn về vấn đề chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối
với vùng biển Đông và các quần đảo là việc làm rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải
có sự thận trọng và chính xác, mặt khác cũng chỉ nên sử dụng trong chừng mực nào
đó. Khi sử dụng các loại tư liệu này, như trường hợp sách Hải Ngoại Kỷ
Sựchẳng hạn, chúng ta cần phải cân nhắc và kiểm tra, hiệu khám thật kỹ các
đoạn văn có liên quan. Một khi sử dụng bản dịch, việc xem xét lại và điều chỉnh
những sơ suất là rất cần, các dịch giả trước đây không phải là yếu kém nhưng khi
dịch một bộ sách một pho sách phải chịu sự chi phối bởi thời gian hoặc nhiều
lĩnh vực mà nguyên tác đề cập, có thể người dịch không chuyên chú vào các yếu tố
chuyên sâu về địa lý nên dẫn đến sai sót.
Theo dõi quá trình nghiên cứu học thuật của học giới Trung Quốc cũng là một
phương diện phải quan tâm, trên bình diện chung, các nghiên cứu của họ đối với
thư tịch Hán văn cổ dĩ nhiên là sâu sát và nhiều thành tựu so với chúng ta.
Nhưng riêng về các loại tư liệu liên quan đến biển Đông thì lại khác, khi đụng
tới chủ đề này, tinh thần dân tộc cực đoan đã khiến cho sự trung thực trong
nghiên cứu khoa học của họ bị xem nhẹ, nhận ra được sự gượng gạo trong lập luận
hoặc kết luận võ đoán của học giới Trung Quốc, chúng ta mới có thể vững vàng,
linh hoạt hơn khi tiếp thu và phân tích các loại sử liệu này trong phương diện
chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam trên biển
Đông.
Cái Bè, ngày 2 tháng 8 năm
2012.
P.H.Q.
Chú
thích
1. Không
hiểu sao có một số bài viết hiểu lầm, cho rằng tôi (Phạm Hoàng Quân) đã phát
hiện lỗi dịch này và đăng trên blog Đông A. Nhân đây xin nói cho rõ, phát hiện
này là do chủ nhân blog Đông
A.
Cũng cần nói thêm một việc để rút kinh nghiệm, sai sót trong bản dịch đoạn văn
này đã được nêu ra cách nay mấy năm, mà gần đây, Thạc sĩ Trần Văn Quyến lại vẫn
sử dụng đoạn văn dịch sai này [lại không ghi nguồn dịch] trong bài
viết “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012
].
2. Đông Tây
Dương Khảo, Quyển 9- Chu sư khảo, nguyên
văn: “如欲度 道里遠近多少, 凖一晝夜風利所至為十更, 約行幾更可到某處.”
3. Minh
Sử, Quyển 323- Ngoại quốc truyện, 4,
Kê Lung, nguyên văn: “水道順風自雞籠淡水至福州港口五更可達自臺灣港至彭湖嶼四更可達蓋海道不可以里計舟人分一晝夜為十更故以更計道里云.”
4. Hải Quốc
Văn Kiến Lục, Nam Dương Ký, nguyên văn:
“中國用羅 經,刻漏沙, 以風大小順逆較更數, 每更約水程六十里, 風大而順 則培累之, 潮頂 風逆則減退之, 亦知某處.”
5. Trần
Kinh Hoà, “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố”[西沙群島与南沙群島-歷史的回顧 , 陳荊和] , tạp chí
“Nghiên cứu Châu Á Đại học Soka”, 3/1989, Số 10, tr.
49-69, Tokyo:
Đại học Soka.
6. Phần viết
này tham khảo bản Hoà văn và bản dịch Việt văn của nhóm dịch giả: Nghiêm Minh
Quang, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phạm Thị Thu Giang, Võ Đức Thắng
[ bản dịch này chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình chỉnh sửa và hiệu đính, lưu
hành nội bộ trong Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông.]
7. Lãng Hồ,
“Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập san Sử Địa, Số 29- Đặc khảo về
Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1/1975, tr.54-112.
8. Mộng Lương Lục, 20 quyển,
Tống/+1275 – Ngô Tự Mục (?-?)
[夢梁錄 - 宋 - 吳自牧/Meng
Liang
Lu – Song/
+1275 - Wu Zimu
The Past seems a Dream
(description of the capital, Hangzhou)].
Bút ký học thuật, ghi chép về địa lý, phong thổ, luật tục, văn hoá nghệ thuật
vùng Hàng Châu. 20 quyển phân làm 169 điều mục, thu thập nhiều tư liệu ngoài sử.
Tiểu sử tác giả không rõ. Mộng Lương
Lục là một trong 8 sách được dẫn dụng trong “Văn
kiện xác định chủ quyền” do Bộ Ngoại Giao nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa
công bố ngày
30.1.1980.
9. 戴可來 - 于向東, 釋大汕及其越南之行,載於: 中外關系史論叢 -第四輯 ,
1992.
-------------------------
Bài đăng trên Tạp chí điện tử Diễn
Đàn, 5 tháng Chín 2012 / www.diendan.org/.../ve-dia-danh-van-lu-truong-sa-trong-hai-ngoai-ky-su .
In trong Tạp chí Nghiên cứu và
Phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 6 (95). 2012.
Hải
ngoại ký sự 海外紀事 của Thích Đại Sán tức Thạch Liêm (1633 - 1704) 釋大汕 là một
tài liệu khá cần thiết trong việc nghiên cứu hàng hải và tàu thuyền dân tộc .
Một số chỗ cần góp ý .
Tr
48 " Gần trưa , khia thuyền , gió xuôi, nước thuận , thuyền đi mau như bay.Còn
cách Hồ Môn chừng một dặm , thuyền bỗng mắc cạn; lỗi do người coi lái tự ý làm
tài., không theo đường lối do thuyền con chỉ dẫn . Bánh lái mắc kẹt ở dưới,
thuyền không tiến được; gió đè ở trên, buồm chưa kịp thả lèo. Một tiếng ầm,
thuyền nghiêng một bên , ve thuyền chấm nước ,ai nấy đều thất sắc, cầm chắc
thuyền phải vỡ tan. Vội vã xả buồm , mọi người đứng về phía trên gió, ba chiếc
thuyền con và mấy trăm người lôi kéo, thuyền vần chẳng nhúc nhích chút nào.
....Xét chỗ có tiếng ầm lúc nãy , thấy miếng ván giáp đà (phụ bánh lái ) bị gãy,
vĩ lư (chỗ xỏ bánh lái ) cũng hơi xẻ nứt ....
tr
59 " Ngày 24, thuyền chủ viết lên cột buồm máy chữ lớn như sau " Ai thấy núi
trước, thưởng tiền một quan " .Mọi người đều hớn hở , tỏ ý vui mừng . Trên
thuyền có thủy thủ tên A Ban , người An Nam , chưa đầy 20 tuổi ,cường tráng lanh
lẹn, mỗi lúc treo buồm, hắn leo tuốt lên ngọn cột , giăng dây thắt đõi, qua lại
như đi đất bằng ; hắn vừa đứng trước mặt , ngó lên đã thấy ngồi trên đọt buồm
.Suốt ba ngày còn tít mù, chẳng thấy bóng núi. Qua ngày 27 , gần đúng Ngọ ,có
người reo lớn trên đầu cột :Kia kìa, núi đó rồi ! Người đó chính là A Ban
vậy
tr
117 " Quốc vương đã ra lệnh cho thuyền "điển xá " ( thuyền đánh ca đón tiếp đồ
đệ và hành lý
Điển
xá 澱舍 theo Phạm Hòang Quân là thuyền lớn ; Phân tích 澱 điến âm Bắc Kinh là
diàn cặn,
thuốc nhuồm chàm ; 舍 xá shè , quán trọ , nhà ; Tra cứu thì thấy ý của PH Quân là
đúng hơn
tr
190 " Đến ngày 28, chừng canh ba, Cai bá , Giám quan bắt "hồng thuyền " và
thuyền điển xá , mỗi thứ 8 chiếc để chở chuyên hành lý . Tra trên mạng thì hình
như chỉ dùng trong Hải ngoại kỷ sự để chỉ con thuyền
Hồng
thuyền 紅船.hóng chuán Theo mạng Wiki Zh , đó là loại thuyền phổ biến tại Quảng
Đông dùng cho các gánh hát , thân thuyền sơn đỏ . Có buồng cho các diễn
viên
tr
190 " Đầu thuyền ngồi một vị quan , đuôi thuyền đứng một người cầm lái , giữa
thuyền sáu mươi bốn quân nhân đứng chèo , giữa khoang thuyền có bốn cọc nạng sơn
son, trên bắc ngang một cây mõ gỗ, một người lính ngồi gõ mõ làm nhịp cho những
người đứng chèo ...Thuyền dài và hẹp như hình long chu , mũi cất cao , đuôi
thuyền sơn đỏ , giữa không thấy để bếp nấu ..
tr
207 " Cai bá khởi ba hồi trống lệnh, các thuyền đều lên chèo . Trong thuyền đèn
lửa tắt hết . Cai bá đứng trước mũi thuyền , cầm một dây hỏa mai ra hiệu ; hoặc
bát hoặc cạy , khi chậm khi mau , các thuyền đều ngó theo hỏa hiệu lái chèo ,
chẳng hề sai chạy .
tr
230 " Một chiếc tàu hiệu mã tào (tàu ngựa) ra biển chạy trước thuyền ta mấy ngày
, bữa nay cũng lui trở lại . Tàu ấy có tiếng chạy hay nhất trên biển , bạn
thuyền cũng tinh nhuệ , đến nay đã ba lần ra chạy , đều phải trở lui ; Bởi vậy
mọi người đều quyết ý "áp đông " (tức chờ qua mùa đông)
Mã
tào 馬艚 Mǎ cáo Phân tích 艚 gồm bộ 舟 chu và 曹 tào - nhóm, bầy đàn , họ Tào .Không
tìm thấy chữ này qua Google ; chỉ thấy 马槽 bộ mộc với nghĩa là cái máng ngựa
!
Ngoài ra còn có các tên thuyền :
Điền cô đĩnh 田姑艇
VỀ ĐỊA DANH “VẠN
LÝ TRƯỜNG
SA”
TRONG TÁC
PHẨM HẢI NGOẠI KỶ
SỰ
Phạm Hoàng
Quân
Hải
Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển
Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy
đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi
trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác,
không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963
không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần
phân tích cặn kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản
dịch, dẫn đến việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận
văn hoặc bài nghiên
cứu.
Bản dịch Huế ra đời cách nay đã 50 năm, các dịch giả thời ấy có thể chưa mấy
quan tâm đến các yếu tố dính dáng đến địa lý trong ký sự này. Ngày nay, trong
điều kiện tư liệu khá hơn, chúng tôi xem lại các bản gốc chữ Hán, so sánh chúng
và đối chiếu bản dịch với các bản gốc, tạm thời điều chỉnh mấy chỗ sơ suất trong
bản dịch Huế 1963, và bên cạnh cũng bổ sung các thông tin mới (sau 1963) cùng
một số chú thích cho rõ nghĩa
hơn.
Nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự đề cập nhiều lãnh vực, khảo sát này chỉ chú
trọng và tìm hiểu riêng về những yếu tố liên quan đến lộ trình và địa danh, qua
đó nhằm phân tích điểm hợp lý hoặc không hợp lý trong những điều được ghi chép
bởi chính tác
giả.
I. Khái lược
về văn
bản
Hải Ngoại Kỷ
Sự (6 quyển), Thanh/1695 – Thích Đại
Sán.
海外紀事 - 清 康煕三十五年 - 釋大汕
Haiwai Jishi – Qing/
1695 – Shi Da
Shan
Record of events of
Overseas
Bút ký, ghi chép của tăng
nhân Quảng Đông sau chuyến đi đến xứ Đàng Trong (Miền Trung Việt Nam), về nhân
vật, phong tục, vật sản, tín ngưỡng và những điều nghe thấy trên
đường.
Lời tựa của Đại Việt Quốc
vương Nguyễn Phước Chu (阮福週), đề
tháng 5 năm Bính tý (1696); lời Tựa của người ở Dũng Giang là Cừu Triệu Ngao
(仇兆鼇), đề
tháng Giêng năm Khang Hi kỷ mão (1699); lời Tựa của người ở Ngô Giang là Từ Cửu
(徐 [金九]), không
đề năm; lời Tựa của người ở Tấn Lăng là Mao Đoan Sĩ (毛端士) đề tháng
8 năm Khang Hi kỷ mão
(1699).
Đại Sán, họ Từ
(徐) tên
Thạch Liêm (石濂), pháp
hiệu Đại Sán, hiệu Hán Ông Hoà thượng (厂翁和尚), người
Ngô Huyện, Giang Tô, tu ở chùa Trường Thọ, Quảng Đông. Lai lịch có nhiều thuyết,
hành tung khá phức tạp. Mùa xuân năm Khang Hi ất hợi, đến Đại Việt do được Chúa
Nguyễn Đàng Trong mời sang thuyết
pháp.
Hải Ngoại Kỷ Sự qua ghi nhận
trong “Tứ Khố Tổng Mục Đề
Yếu”:
史部三十四
地理類存目七
海外紀事
六卷
浙江巡撫採進本
國朝釋大汕撰。大汕廣東長壽寺僧。康熙乙亥春。大越國王阮福週。聘往說法。越歲而歸。因記其國之風土。以及大洋往來所見聞。大越國者。其先世乃安南贅壻。分藩割據。遂稱大越。卷前有阮福週序。題丙子蒲月。蓋康熙三十五年也。
Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu,
Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7:
Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển
Bản do Tuần phủ Chiết Giang tìm
được dâng
lên.
Sách do Thích Đại Sán triều ta
[Thanh] soạn. Đại Sán là Tăng nhân chùa Trường Thọ, mùa xuân năm Ất Hợi được
Quốc vương Đại Việt Nguyễn Phúc Chu mời sang thuyết pháp. Qua một năm trở về,
nhân ghi chép về phong thổ nước ấy, cùng những điều tai nghe mắt thấy khi qua
lại biển lớn. Nước Đại Việt, nguyên đời trước là rể của [chúa]
An Nam,
phân cõi chiếm cứ, xưng hiệu Đại Việt. Trước sách có lời Tựa của Nguyễn Phúc
Chu, đề tháng 5 năm Bính Tý, nhằm năm Khang Hi thứ
35.
|
Các phần liên quan
đến Vạn
Lý Trường Sa, xem
trong:
Quyển 3, tờ 23b,
24a.
Quyển 4, tờ 16a ; tờ
21b
Các bản Hải Ngoại Kỷ Sự đã xuất
bản và lưu
hành:
* Bản nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng
Mục, Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7.
Quân chú: Sách được nhập Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục không phải là sách thuộc <>, mà chỉ lưu tên sách và mấy dòng đề yếu, bản
sách nằm trong kho, chờ đọc duyệt hoặc tiếp tục thẩm định nội dung coi có điều
gì trái với quan điểm Thanh đình hay không, chưa được chép nhân bản hoặc khắc in
nhân bản. Do không phân biệt được Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục (sách tổng mục lục)
và <> (sách tập hợp thành tùng thư) là 2 bộ phận khác
nhau nên giới nghiên cứu Việt Nam thường hay gắn
sách Hải Ngoại Kỷ Sự thuộc
<> cho có vẻ quan trọng.
Gần đây, tiêu biểu như Thạc sĩ Trần Văn Quyến trong bài
viết: “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012 ].
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, hiện tàng Bắc Kinh Đồ Thư Quán.
[北京圖書館藏清康煕寶鏡堂刊本]
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, lời Bạt của Phó Tăng Tương. [清康煕寶鏡堂刊本傅增湘跋] (theo Trung Quốc Cổ Tịch Thiện
Bản Thư Mục- Sử bộ, quyển 6, tờ 60a.)
* Bản khắc in: không đề năm và nơi
khắc in, hiện tàng (Nhật Bản) Đông Dương Văn Khố [The Toyo
Bunko – Oriental Library/東洋文庫藏本].
* Hải Ngoại
Kỷ Sự, trong tùng thư <>, tập thứ 6, Thượng
Hải: Thượng Hải Tiến Bộ Thư Cục, (?) [海外纪事, 屬 叢書 <<筆記小說大觀>>,第六輯,第六函, 上海進步書局]
* Bản in: “Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển”, Thích Đại Sán soạn, in trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Trần Kinh Hoà biên trứ, thuộc <>, Đài Bắc: Trung Hoa Tùng Thư Uỷ Viên Hội – Đài
Loan Thư Điếm, 1960. (phần Hải Ngoại Kỷ Sự được in chụp từ
bản Đông Dương Văn Khố).
[Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Shi qi shi ji Guang nan zhi xin shi
liao, Chen Jinghe bian zhu, <>, Taibei : Zhonghua
cong shu wei yuan hui : Taiwan shu dian zong jing xiao, 1960.
/ 海外纪事
六卷 ,(清)释大汕著
載中
“十七世紀廣南之新史料”,陳荊和编著,<<中華叢書>>,台北:中華叢書委員會: 台灣書店總經銷,
1960.(影印東洋文庫藏本) ].
Quân chú: Sách này gồm 160 trang, chia làm 2 phần, phần khảo cứu về Hải Ngoại
Kỷ Sự của Trần Kinh Hoà và phần nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự (in chụp).
Do ông Trần Kinh Hoà đặt cho sách nhan đề “ Sử liệu mới về Quảng Nam hồi thế kỷ
17”, nên dễ bị lầm tưởng đây chỉ là một tập sử liệu tổng
hợp.
* Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh)
Đại Sán trứ, Dư Tư Lê điểm hiệu (giới thiệu và chấm câu), thuộc tùng thư
<>, Bắc Kinh: Trung
Hoa Thư Cục, 1987, 2000. [ Haiwai Jishi – (Qing) Da Shan write, Yu Sili
introduce, in <>, Beijing:
Zhonghua Shuji, 1987,
2000./ 海外紀事,(清)大汕 著 - 余思黎 點校,<<中外交通史籍叢刊 >>, 北京: 中華書局,1987,2000.].
Quân chú: Bản in này là một sách in chung 2 tác phẩm: phần trước là An Nam
Chí Lược của Lê Tắc, do Võ Thượng Thanh (武尚清)
điểm hiệu, 447 trang, phần sau là Hải Ngoại Kỷ Sự, Dư Tư Lê điểm hiệu,
140
trang.
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch
Xuất bản xã, 1995. (ảnh ấn
bản)
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Sơn Đông: Tề Lỗ Thư Xã xuất bản,
1997. (ảnh ấn
bản).
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Đại Sán soạn, trong tùng
thư <>, ảnh ấn bản (Khang Hi) Bảo Kính Đường khắc bản
cất tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã,
2002. [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan
zhuan, in <> , ju
Beijing Tu Shu Guan cang Qing Kangxi Bao Jing Tang ke ben ying yin, Shanghai :
Shanghai Guji chu ban she, 2002 / 海外纪事六卷(清)释大汕 撰, <<續修四庫全書>>,據北京圖書館藏清康熙寶鏡堂刻本影印,上海 : 上海古籍出版社, 2002.]
Bản dịch sang Việt văn [bản
dịch Huế
1963]:
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Thích Đại Sán soạn,
Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Trần Kinh Hoà viết bài Khảo cứu, Viện Đại
Học Huế - Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Huế, 1963. [ dịch
theo bản Đông Dương Văn Khố]. (Bìa trong của bản dịch ghi sai là “Toàn bộ: 7
quyển”, gần đây Nguyễn Văn Đăng sai theo, xem Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,
số 1, 2012, tr.115.)
II. Tóm tắt lộ
trình.
Đêm 15 tháng Giêng [rằm Thượng
Nguyên] năm Ất Hợi ( Khang Hi thứ 34 – Tây lịch: 27/2/1695) Đại Sán cùng tuỳ
tùng 50 người lên thuyền tại Hoàng Phố, thuyền quá tải, đoàn người chia hai tốp,
một tốp ở lại chờ chuyến sau, Đại Sán đi trong chuyến
đầu.
Ngày 16 tháng Giêng, ngang qua
Đông Hoản, Hổ Môn, Việt Hải quan, Ô Trữ Sơn, Lỗ Mạn Sơn. [hải phận Quảng Đông,
Thanh]
Ngày 27 tháng Giêng, đến Cù lao
Chàm, vào Hội An, đổi
thuyền.
Ngày
28 tháng Giêng, tới Thuận Hoá. Trú ở chùa Thiền
Lâm.
Ngày
13 tháng 3, tốp thứ hai tới Thuận
Hoá.
Ngày
mùng 1 tháng 7, Đại Sán trở lại Hội
An.
Ngày
mùng 2 tháng 7, Đại Sán tới Hội An. Trú tại chùa Di
Đà.
Ngày
19 tháng 7, Đại Sán lên thuyền buôn rời Hội An, về Quảng
Đông.
Ngày
20 tháng 7, sáng, đến Cù lao Chàm, nghỉ tạm chờ
gió.
Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra
khơi.
Ngày
mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm, sau vài hôm
trở vào Hội
An.
Ngày
12 tháng 10, theo đường bộ ra Thuận Hoá, qua đèo Hải
Vân.
Ngày
Rằm tháng 10, sáng, đến cửa biển Thuận An, có thuyền chờ sẵn, lên thuyền, tối,
tới chùa Thiên Mụ. Lần này đến Thuận Hoá trú tại chùa Thiên
Mụ.
Hải Ngoại Kỷ Sự chép
rõ ngày tháng chỉ đến
đây.
Lịch trình chuyến về Quảng Đông không thấy Đại Sán chép rõ như chuyến đi. Liên
quan đến chuyến về chỉ thấy qua các chi tiết tản mác
trong:
1/
Lời Tựa của [Chúa] Nguyễn Phước Chu, đề “Tháng 5 (Bồ nguyệt) năm Bính tý”,
và trong lời Tựa cũng viết: “Hoà thượng trích lục một số việc, góp lại thành
tập, nhan đề Hải Ngoại Kỷ Sự, lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta
viết bài tựa”. (HNKS, Tựa, Bản dịch Huế, 1963,
tr.10)
2/
Trong quyển 5, sau rằm tháng 10 năm ất hợi, Đại Sán gặp chúa Nguyễn, nhân trong
lúc nói chuyện, ngỏ ý xin tài trợ năm ngàn vàng (五千金 / ngũ
thiên kim ?) để trùng tu chánh điện chùa Trường Thọ ở Quảng Đông, chúa hứa góp,
nhưng muốn biết lai lịch chùa này. Đại Sán về viết một bài văn sớ kể lại nhơn
duyên trùng tu, đem dâng. “Vương duyệt
xem lá sớ, gật đầu nói rằng: ‘ Mùa
xuân sau Lão Hoà thượng về, thay ta xây cất điện đường chùa Trường
Thọ’.” (Bản
dịch Huế, 1963,
tr.204)
3/
Giữa quyển 3, Đại Sán viết: “Mùng 3
tháng 6 [ất hợi], cáo từ Quốc Vương, định đến ngày 15 sẽ xuống Hội An, liệu lý
đường về cho kịp mùa gió thu.” (Bản dịch Huế,
tr.125)
4/
Cuối quyển 6, Đại Sán viết chung chung là: “Mùa
xuân năm Ất Hợi đến nước Đại Việt, định ở qua một năm, ngày về đã định vào tiết
đầu thu.”(Bản dịch
Huế,
tr.234)
Như căn cứ vào HNKS thì không biết cụ thể ngày về của Đại Sán, chỉ biết đại khái
là sau tháng 5 năm Bính
Tý.
Trong bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà in chung trong bản dịch HNKS, thấy ông
Trần căn cứ vào các báo cáo của thuyền buôn nộp cho quan chức Quảng Đông, cho
biết Đại Sán rời bến Hội An vào ngày 22 hoặc 24 hoặc 26 tháng 6 và về đến Quảng
Đông độ giữa tháng 7 năm Bính Tý
(1696).
Tóm lại, qua lịch trình chuyến đi từ Quảng Châu đến Thuận Hoá và chuyến về hụt
từ Cù lao Chàm vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1695, chúng ta có thể biết được
thương thuyền chở Đại Sán đã đi theo con đường biển ngoài khơi ngang qua phía
đông đảo Quỳnh Châu. Trong HNKS, tên Vạn Lý Trường Sa được đề cập hai lần, tên
Trường Sa được đề cập hai lần, nằm trong ba đoạn
văn.
Những điều phải lưu ý là, tại đoạn văn quan trọng có nói đến khoảng cách [canh,
dặm] giữa Hội An với Vạn Lý Trường Sa thì Đại Sán đã không ghi chép ở góc độ
trực tiếp mà là nghe kể lại. Ở hai đoạn khác, địa danh Vạn Lý Trường Sa và
Trường Sa được nói đến trong lần Đại Sán trở về không
thành.
III. Về
ba đoạn văn liên quan đến địa danhVạn
Lý Trường
Sa.
Các đoạn nguyên tác dùng để khảo
sát trong bài viết này căn cứ
vào:
* bản in khắc Hải Ngoại
Kỷ Sự 6 quyển lưu tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, bản chụp PDF lưu hành trên
mạng.
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại [Nhật Bản] Đông Dương Văn Khố, in chụp,
trong Thập
Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Đài Loan
Thư Điếm xuất bản,
1960.
* bản gõ chữ điện tử (phồn
thể) Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Dư Tư Lê giới thiệu và chấm câu, Trung Hoa
Thư Cục xuất bản,
2000.
Các đoạn nguyên tác dưới
đây được gõ lại từ bản Đông Dương Văn Khố, đối chiếu bản Bắc Kinh Đồ Thư Quán,
đối chiếu và chấm câu theo cách chấm câu của Dư Tư
Lê.
1/
Đoạn văn thứ
nhất.
Nếu đúng như thông lệ ghi chép ký sự, tức ghi theo lịch trình, thì đoạn văn liên
quan đến Vạn Lý Trường Sa sẽ được đề cập trong bối cảnh vào tháng giêng, lúc
thương thuyền chở Đại Sán đang lênh đênh trên biển, trên tuyến đường từ Lỗ Mạn
Sơn hướng đến Cù Lao Chàm, và đoạn văn này- tương ứng với lộ trình - sẽ thuộc
đầu quyển 1 của kỷ sự. Nhưng thực tế ghi chép trong HNKS không phải như vậy,
đoạn văn liên quan Vạn Lý Trường Sa được chép ở giữa quyển 3, trong bối cảnh:
thời gian khoảng cuối tháng 5 ; địa điểm tại nhà khách chùa Thiền Lâm ở Thuận
Hoá, do Đại Sán nghe một người khách kể chuyện và ghi lại, toàn văn như
sau:
“客有言:歸帆風信,須及立秋前後半月,西南風猛,一帆風順四五日夜便抵虎門.處暑後北風漸起,水向東流,南風微弱,不敵東歸流急,難保為穩便矣.蓋洋海中橫亘沙磧,起東北直抵西南,高者璧立海上,低或水平沙面,粗硬如鐵,船一觸即成虀粉.闊百許里,長無算,名萬里長沙.渺無草木人煙,一失風水漂至,縱不破壞,人無水米,亦成餒鬼矣.去大越七更路,七更約七百里也.先國王時,歲差澱舍往拾壞船金銀器物云.秋風潮涸,水盡東洄,一浪所湧,即成百里,風力不勁,便有長沙之憂.”
(海外紀事 - 卷三,頁23後24前)
Bản dịch Huế 1963
(tr.125):
“ Khách có người bảo, mùa
gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết Lập thu; chừng
ấy, gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể
đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bắc dần dần thổi lên, nước chảy về
hướng đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy
sẽ khó giữ được ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài
từ đông bắc qua tây nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang
mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát
rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “vạn lý
trường sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước
tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà
thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm.[1] Thời
Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá [2] đi dọc theo bãi cát,
lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút
về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức
gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ trường
sa.”
Đính
chính:
[1] Câu trong nguyên văn: “khứ
Đại Việt thất canh lộ, thất canh ước thất bách lý [去大越七更 路,七更約七百里也.]”. Trong câu
này có hai điểm sai, một của người dịch và một của người
viết.
Lỗi của bản dịch đã được
chủ nhân blog Đông A nêu ra hồi năm 2009 (ngày 14 tháng 3), rằng thất
canh nếu dịch sát nghĩa thì phải là bảy canh, không thể dịch
là bảy ngày, đây là phát hiện đúng và quan trọng về một lỗi sai rất cần
được điều chỉnh.1
Lỗi của người viết (Đại
Sán) là quy đổi sai cách tính canh sang dặm. Câu văn này dịch sát
nghĩa sẽ là : “Khoảng ấy cách Đại Việt bảy canh, bảy canh ước chừng bảy trăm lý
(dặm)”. Đọc lại toàn đoạn văn trích nêu trên, chúng ta thấy Đại Sán chỉ nghe mà
viết lại, điều này cũng chứng tỏ ông ta chưa biết gì về Vạn Lý Trường Sa, nội
dung HNKS còn cho thấy Đại Sán không từng đi biển, các lý do này dẫn đến việc
ước đoán, quy đổi canh sang dặm có sự chênh lệch quá lớn so với quy chuẩn đương
thời.
Đương thời, canh trong hàng
hải tuy được hiểu như là một lượng từ, là đơn vị tính lộ trình đường thuỷ, nhưng
trên thực tế, vận tốc thuyền buồm đi biển phải chịu sự lệ thuộc vào sức gió nên
loại đơn vị này không thể cho tương đương với số lý (dặm) cụ thể được,
sách Đông Tây Dương Khảo (1617) do Trương Nhiếp viết - trước HNKS 80 năm
– cho biết: “ Như muốn biết đường đi xa gần bao nhiêu, lấy chuẩn một ngày đêm
[trong điều kiện] gió thuận là 10 canh, ước đi được mấy canh, thì biết tới xứ
nào.”2. Trong Minh
Sử (1737) cũng có đoạn nói về canh: “Đường thuỷ, gặp gió thuận, từ Kê Lung,
Đạm Thuỷ [bắc Đài Loan] đến cảng Phúc Châu [Phúc Kiến] 5 canh thì tới. Từ cảng
Đài Loan đến đảo Bành Hồ 4 canh thì tới…Bởi đường biển không thể đo tính bằng lý
(dặm), nên người đi biển chia một ngày đêm làm 10 canh, rồi theo số canh mà tính
ra dặm đường.”3. Trong Hải Quốc Văn
Kiến Lục (1730), Trần Luân Quýnh nói có vẻ cụ thể hơn: “ …[thuật đi biển
của] Trung Quốc dùng la bàn, vạch đồng hồ cát, coi gió lớn nhỏ thuận nghịch mà
đọ số canh, mỗi canh đường thuỷ ước chừng 60 lý, gió lớn mà thuận thì tính thêm,
nước triều cao gió nghịch thì giảm xuống, coi theo đó thì biết đến xứ
nào.”4.
Qua các ghi chép về canh
và dặm trên đây ta thấy được cách tính khá thống nhất của người đi biển, mỗi
ngày đêm chia ra 10 canh, mỗi canh đi được trên dưới 60 lý [~ 30 km]. Các ghi
chép này đều rất gần với thời điểm ra đời HNKS, Đại Sán không rành việc đi biển
nên ước chừng mỗi canh = 100 lý, chênh lệch quá
xa.
[2] Nguyên văn viết: điến
xá [澱舍], bản dịch
dịch là thuyền
đánh cá. Trong HNKS, thấy có bốn loại
thuyền của xứ Đàng Trong được chép theo dạng tên riêng, gồm: điền cô đĩnh
[田姑艇], hồng
thuyền [紅船], mã
tào/tàu [馬艚], điến xá
[澱舍]. Trong
bốn loại này, điền cô đĩnh được mô tả là loại thuyền đánh cá; hồng thuyền là
loại thuyền quan dụng, hình dáng thon dài như thuyền rồng, có 64 tay chèo; mã
tàu là thuyền đi nhanh nhất; điến xá là loại thuyền lớn nhất (có lẽ chuyên dụng
cho việc chở hàng hoá). Tôi chưa khảo sát thật kỹ và so sánh mở rộng về các ghi
chép này, tuy nhiên, sơ bộ cho thấy nên dịch điến xá là thuyền
lớn có lẽ hợp với bối cảnh đoạn văn hơn dịch là thuyền đánh cá. Để
làm sáng tỏ vấn đề này, cần phải có các cuộc điền dã ven biển từ vùng Hội An đến
Thuận An để tìm hiểu xem tên ghe tàu hoặc các bộ phận ghe tàu mà dân đi biển
ngày nay quen gọi có liên hệ gì về mặt ngữ âm so với tên bốn loại thuyền kể trên
hay không.
Lưu ý, bản
dịch không viết hoa các địa danh “vạn lý trường sa” và “trường sa”, cũng có thể
do lỗi sắp
chữ.
2/
Đoạn văn thứ
hai.
Đoạn văn này được viết trong bối cảnh lần về không thành, thuyền buôn chở Đại
Sán khởi hành tại Tiêm Bích La (Cù lao Chàm) vào sáng ngày 30 tháng 7 năm 1695
(chép trong Quyển
4):
“是時船正疾行皆不理論而南吹漸微舟所進幾與所退相敵頃刻大雨北風猛作勢不可支舉船盡以長沙為憂.余披依持咒久之東南一陣颶風陡起黑夜雲霾手不見掌各倉惶聽命總管見龍行隱隱飛舞於船左右約一更龍去從前北風所飄流之路須臾盡復風雨後海光天色照灼遠近至是而歸心始灰矣平明霽色見山痕澹澹不數十里外仍是尖碧蘿也隨風竟返至山港舟人擊鼓賽神各加額曰餘生再造也”
(海外紀事 - 卷四, 頁16前-後)
Bản dịch Huế
(tr.161):
“lúc
ấy thuyền đang đi mau, chẳng để ý bàn giải. Gió nam thổi dịu dần, thuyền chạy
vát tới vát lui, chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng chốc mưa lớn, gió bắc thổi
mạnh, thế không chạy tới được, cả thuyền đều lo ngại vì quãng đường Trường Sa
(Bãi dài). [1] Ta khoát y vào niệm chú. Hồi lâu, phía đông nam một trận gió
bão nổi lên, đêm tối mây mù, ngữa bàn tay chẳng thấy. Mọi người đều sảng hồn,
mường tượng trông thấy rồng bay múa hai bên thuyền, ước chừng một canh, rồng bay
đi. Khoảng đường gió bắc thổi đi nảy giờ, trong giây phút đã thấy thuyền trở lại
chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời sắc biển sáng suốt gần xa; đến đây lòng về đã
nguội lạnh hết
vậy.
Sáng ngày, mây tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách chừng vài mươi
dặm, vẫn thấy đảo Tiêm Bích
La. Theo
gió xuôi vào sơn cảng, người trong thuyền đánh trống tạ thần, đều giơ tay lên
trán nói rằng: ‘Thực
là sống sót’.”
Lưu
ý
[1] Trong đoạn văn này “Trường
Sa” được hiểu như địa danh, xem đoạn văn 1 và 3 “vạn lý trường sa” không viết
hoa.
3/
Đoạn văn thứ
ba.
Đoạn văn này có nội dung gần giống đoạn 2 (trên). Mấy ngày sau khi thoát nạn trở
lại Hội An, Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn, kể lại tình cảnh của lần về không
thành (chép trong quyển
4):
“及上洋艚秋經白露船主夥長皆言北風甚急帆不能放老僧持咒祈請南風次日西南風起擊鼓鳴鑼揚帆出海經兩晝夜北風漸作行莫能前於是再祈午後南吹滿篷*正發巾頂疾行時忽然北風飛浪大雨傾盆龍騰蛟起地覆天翻幾乎有萬里長沙魚腹之患矣余惟默坐持咒正在慌忙無措處陡作一陣東風將船送回碧蘿山下.”
(海外紀事 - 卷四, 頁21前-後)
* bản
khắc in chữ Bồng bộ Trúc [篷],
bản Dư Tư Lê gõ chữ Bồng bộ Thảo [蓬]
Bản
dịch Huế
(tr.167):
“Đến
lúc Lão tăng lên tàu, tiết thu đã muộn. Thuyền chủ và đồng bạn [1] đều
bảo rằng gió bắc thổi mạnh, chẳng khá buông buồm. Lão tăng niệm chú cầu gió nam.
Qua ngày sau, gió tây nam thổi lên, trống đánh chiêng hồi, dương buồm ra
biển, đi được hai ngày đêm, [2] gió bắc lại thổi lên, thuyền không đi
được. Lão tăng lại cầu gió. Chiều lại gió nam thổi thẳng buồm. Thuyền đương đi
rất mau, bỗng gió bắc nổi dậy, mưa như trút vò, rắn múa rồng bay, trời long đất
lỡ, cơ hồ giữa bãi dài muôn dặm, [3] chẳng khỏi bụng cá chôn thây. Ta chỉ
ngồi lặng thinh niệm chú. Trong lúc hoang mang bó tay chờ chết, bỗng một trận
gió đông nam đưa thuyền trở lại đảo Tiêm Bích La.[4]”
Đính
chính
[1]
Lỗi dịch, nguyên văn viết Khoả trưởng [夥長],
dịch đồng bạn là không chính xác, Khoả trưởng là một cách gọi người giữ
la bàn, trực canh việc định hướng cho
tàu.
[2]
Lỗi viết, câu đi được hai ngày đêm không ăn khớp với số ngày cũng do Đại
Sán viết ở những đoạn khác, ở các đoạn khác ghi chép cho thấy thời gian ra đi và
giạt trở về chỉ “một
ngày đêm” [Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi. Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị
gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm (xem phần II, Tóm tắt lộ trình)].
Qua chi tiết này, thấy Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn không trung
thực.
[3] Câu này
cho thấy người dịch không xem Vạn Lý Trường Sa là địa danh , nên đã dịch là “bãi
dài muôn
dặm”.
[4]
Lỗi dịch, nguyên văn viết: Bích La Sơn hạ [dưới (chân núi) Bích LaSơn], dịch
là đảo
Tiêm Bích La chưa chính
xác lắm, tuy nhiên,
do có sự đồng danh Tiêm Bích La – Bích La Sơn – Cù lao Chàm, nên đây là lỗi nhỏ,
không làm sai ý nguyên tác.
IV. Tóm
tắt một số trích dẫn và nhận định liên
quan.
1/
Quan điểm của Trần Kinh
Hoà
Bài khảo cứu của Giáo sư Trần Kinh Hoà in chung bản dịch Hải Ngoại Kỷ
Sự (1963) đã khảo sát khá kỹ về văn bản, về tiểu sử tác giả và cuộc du hành
Quảng Nam của Thích Đại Sán. Cũng như nhóm dịch giả, ông Trần Kinh Hoà giới
thiệu sách này ở góc độ tư liệu lịch sử văn hoá, các yếu tố về địa lý, địa danh
không được lưu ý. Tuy nhiên, đến năm 1989, ông Trần đã có dịp nhắc lại HNKS dưới
góc nhìn thời sự thuộc vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo trên biển Đông.
Bài viết “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố” (Nhật
ngữ) của Trần Kinh Hoà được đăng trên tạp chí nghiên cứu thuộc một đại học Nhật
Bản.5 Như tiêu đề của bài
viết “Quần
đảo Tây Sa và Nam Sa- Nhìn lại lịch sử”6,
ông Trần điểm lược một số tư liệu trong lịch sử do người Trung Quốc, Việt Nam và
phương Tây ghi chép có liên quan đến vấn đề khám phá, khai thác và xác lập chủ
quyền do Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành. Quan điểm của ông Trần trong phạm
vi toàn bài viết 20 trang này- theo phát biểu của ông – chỉ trên cơ sở liệt kê
sử liệu, với lập trường không nhận định chúng theo các hướng tranh chấp. Đoạn
văn thuộc quyển 3 của HNKS (đoạn văn thứ nhất trong bài viết này) được trích dẫn
và xếp chung trong nhóm tư liệu thuộc ghi chép của các nhà hàng hải ngoại quốc
qua lại Vạn Lý Trường Sa, đối với đoạn văn này, qua cách sắp xếp sử liệu tương
liên, thấy được chủ ý của ông Trần liệt nó vào loại tư liệu trung tính. Ở phần
kết luận bài viết, thấy có đoạn: “Mục
đích đó [việc ra đảo định kỳ] rõ ràng là thu gom những đồ vật còn sót lại của
tàu bị nạn và thu thập đồi mồi, hải sâm và vỏ sò, [điều đó] không có nghĩa là đã
có người Việt Nam sinh sống dài hạn trên đảo”, kết luận
này thuộc về phần phân tích và nhận định của ông Trần, khá dài, sở dĩ tôi trích
tạm đoạn này vì nó liên quan đến lập luận trong nhiều bài viết của một số tác
giả Việt Nam khi dựa vào câu: “Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh
cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào” để củng
cố bằng chứng chủ
quyền.
Trên đại thể, bài viết của
Giáo sư Trần mang tinh thần yêu chuộng hoà bình, mong mỏi các quốc gia xung
quanh biển Đông tìm những giải pháp ôn hoà và tôn trọng luật pháp quốc tế. Tuy
nhiên, trong cách trưng dẫn tư liệu và kèm theo nhận định ở phần kết luận rằng
“các kế hoạch thực thi chủ quyền của phía Việt Nam đã dừng lại bởi sự qua đời
của vua Minh Mạng [nguyên văn viết nhầm là Tự Đức] vào năm 1841”, nhận định này
của ông Trần có thể mang đến những cách hiểu không mấy thuận lợi cho Việt
Nam.
2/
Quan điểm của Lãng Hồ (Giáo sư Nguyễn Khắc
Kham).
Là người đầu tiên sử dụng đoạn văn có liên quan đến địa danh Trường Sa
trong việc chứng minh chủ quyền của Chúa Nguyễn, tác giả Lãng Hồ
đã trích dẫn nhiều đoạn thuộc quyển 1, quyển 3 và quyển 4 trong
Hải Ngoại Kỷ Sự. Lãng Hồ nêu quan điểm: “trong
khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đã được hành sử dưới nhiều hình thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè
ngoại quốc, thiết lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân
của các dân chài bản xứ đối với hai quần đảo đó”7. Việc
trích dẫn và quan điểm của Lãng Hồ được rất nhiều tác giả về sau ủng hộ và phát
triển.
3/
Quan điểm của Dư Tư
Lê.
Dư Tư Lê là người viết bài giới thiệu và chấm câu cho bản in HNKS
do Trung Hoa Thư Cục xuất bản
năm 1987 và tái bản
năm 2000. Bản in
này không có phần chú giải, quan điểm của Dư Tư Lê nằm ở bài giới thiệu. Trong
một đoạn của bài giới thiệu sách, Dư Tư Lê phê phán quan điểm của Lãng Hồ, cho
rằng việc căn cứ vào Hải Ngoại Kỷ Sự để lập luận về “chủ quyền” của Đại Việt là
không thuyết phục. Tuy nhiên, họ Dư không trực tiếp đi vào phân tích lý do thế
nào là không thuyết phục của các ghi chép ấy mà lại trưng dẫn bài viết “Thất
Châu Dương khảo” của Hàn Chấn Hoa, đại ý nói rằng sách Mộng Lương
Lục 8 từ thời Tống đã xác định
chủ quyền của Trung Hoa trên vùng biển phía nam, từ Thất Châu Dương [Hoàng Sa/
Tây Sa] đến Côn Lôn Dương. Bị ảnh hưởng bởi các tác giả đi trước như Hàn Chấn
Hoa, Quách Vĩnh Phương v.v, Dư Tư Lê chỉ lập lại kiểu đối chọi tư liệu để kết
luận chủ quan, đáng lẽ phải đi sâu phân tích trực tiếp các nội dung được ghi
chép bởi Đại Sán, đây là chỗ yếu kém trong bài nghiên cứu tổng quan về sách Hải
Ngoại Kỷ Sự
này.
Ngoài ra, trong những điều
liên quan trực tiếp đến các địa danh trên biển Đông ghi chép trong Hải Ngoại
Kỷ Sự, độc giả có thể đọc thêm công trình “Thích Đại Sán Cập Kỳ Việt Nam Chi
Hành/ Thích Đại Sán và chuyến đi đến
Việt Nam” của thầy
trò Đái Khả Lai - Vu Hướng Đông, in trong Trung Ngoại quan hệ sử luận
tùng, Tập thứ tư, 1992. 9
Vài lời
kết
Trong Hải Ngoại Kỷ Sự, lời
lẽ của Đại Sán tuy huênh hoang ma mị nhưng dù sao nó vẫn là một tập bút ký có
dựa trên thực tế. Các ghi chép về quan hệ đời tư giữa Đại Sán với Chúa Nguyễn
cùng các quan chức Nam Hà lộ rõ vẻ kênh kiệu khoe khoang quá đáng của tác giả,
tuy những ghi chép mô tả phong tục, địa lý tuy có chút sai lệch nhưng cơ bản vẫn
thấy được sự xác thực. Riêng các đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường
Sa qua ghi chép trong lộ trình của Đại Sán, qua phân tích, chúng ta thấy rằng dù
tác giả có nhầm lẫn về quy ước chuyển đổi đơn vị nhưng con số bảy canh tương
đương với 420 lý (~ 210 km) rõ ràng là khá phù hợp với khoảng cách từ đất liền
đến quần đảo Hoàng
Sa.
Sử dụng các loại tư liệu bên ngoài nhằm bổ sung, củng cố cho các lập luận trong
các bài viết, luận văn về vấn đề chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối
với vùng biển Đông và các quần đảo là việc làm rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải
có sự thận trọng và chính xác, mặt khác cũng chỉ nên sử dụng trong chừng mực nào
đó. Khi sử dụng các loại tư liệu này, như trường hợp sách Hải Ngoại Kỷ
Sựchẳng hạn, chúng ta cần phải cân nhắc và kiểm tra, hiệu khám thật kỹ các
đoạn văn có liên quan. Một khi sử dụng bản dịch, việc xem xét lại và điều chỉnh
những sơ suất là rất cần, các dịch giả trước đây không phải là yếu kém nhưng khi
dịch một bộ sách một pho sách phải chịu sự chi phối bởi thời gian hoặc nhiều
lĩnh vực mà nguyên tác đề cập, có thể người dịch không chuyên chú vào các yếu tố
chuyên sâu về địa lý nên dẫn đến sai sót.
Theo dõi quá trình nghiên cứu học thuật của học giới Trung Quốc cũng là một
phương diện phải quan tâm, trên bình diện chung, các nghiên cứu của họ đối với
thư tịch Hán văn cổ dĩ nhiên là sâu sát và nhiều thành tựu so với chúng ta.
Nhưng riêng về các loại tư liệu liên quan đến biển Đông thì lại khác, khi đụng
tới chủ đề này, tinh thần dân tộc cực đoan đã khiến cho sự trung thực trong
nghiên cứu khoa học của họ bị xem nhẹ, nhận ra được sự gượng gạo trong lập luận
hoặc kết luận võ đoán của học giới Trung Quốc, chúng ta mới có thể vững vàng,
linh hoạt hơn khi tiếp thu và phân tích các loại sử liệu này trong phương diện
chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam trên biển
Đông.
Cái Bè, ngày 2 tháng 8 năm
2012.
P.H.Q.
Chú
thích
1. Không
hiểu sao có một số bài viết hiểu lầm, cho rằng tôi (Phạm Hoàng Quân) đã phát
hiện lỗi dịch này và đăng trên blog Đông A. Nhân đây xin nói cho rõ, phát hiện
này là do chủ nhân blog Đông
A.
Cũng cần nói thêm một việc để rút kinh nghiệm, sai sót trong bản dịch đoạn văn
này đã được nêu ra cách nay mấy năm, mà gần đây, Thạc sĩ Trần Văn Quyến lại vẫn
sử dụng đoạn văn dịch sai này [lại không ghi nguồn dịch] trong bài
viết “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012
].
2. Đông Tây
Dương Khảo, Quyển 9- Chu sư khảo, nguyên
văn: “如欲度 道里遠近多少, 凖一晝夜風利所至為十更, 約行幾更可到某處.”
3. Minh
Sử, Quyển 323- Ngoại quốc truyện, 4,
Kê Lung, nguyên văn: “水道順風自雞籠淡水至福州港口五更可達自臺灣港至彭湖嶼四更可達蓋海道不可以里計舟人分一晝夜為十更故以更計道里云.”
4. Hải Quốc
Văn Kiến Lục, Nam Dương Ký, nguyên văn:
“中國用羅 經,刻漏沙, 以風大小順逆較更數, 每更約水程六十里, 風大而順 則培累之, 潮頂 風逆則減退之, 亦知某處.”
5. Trần
Kinh Hoà, “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố”[西沙群島与南沙群島-歷史的回顧 , 陳荊和] , tạp chí
“Nghiên cứu Châu Á Đại học Soka”, 3/1989, Số 10, tr.
49-69, Tokyo:
Đại học Soka.
6. Phần viết
này tham khảo bản Hoà văn và bản dịch Việt văn của nhóm dịch giả: Nghiêm Minh
Quang, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phạm Thị Thu Giang, Võ Đức Thắng
[ bản dịch này chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình chỉnh sửa và hiệu đính, lưu
hành nội bộ trong Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông.]
7. Lãng Hồ,
“Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập san Sử Địa, Số 29- Đặc khảo về
Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1/1975, tr.54-112.
8. Mộng Lương Lục, 20 quyển,
Tống/+1275 – Ngô Tự Mục (?-?)
[夢梁錄 - 宋 - 吳自牧/Meng
Liang
Lu – Song/
+1275 - Wu Zimu
The Past seems a Dream
(description of the capital, Hangzhou)].
Bút ký học thuật, ghi chép về địa lý, phong thổ, luật tục, văn hoá nghệ thuật
vùng Hàng Châu. 20 quyển phân làm 169 điều mục, thu thập nhiều tư liệu ngoài sử.
Tiểu sử tác giả không rõ. Mộng Lương
Lục là một trong 8 sách được dẫn dụng trong “Văn
kiện xác định chủ quyền” do Bộ Ngoại Giao nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa
công bố ngày
30.1.1980.
9. 戴可來 - 于向東, 釋大汕及其越南之行,載於: 中外關系史論叢 -第四輯 ,
1992.
-------------------------
Bài đăng trên Tạp chí điện tử Diễn
Đàn, 5 tháng Chín 2012 / www.diendan.org/.../ve-dia-danh-van-lu-truong-sa-trong-hai-ngoai-ky-su .
In trong Tạp chí Nghiên cứu và
Phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 6 (95).
2012.
Hải ngoại ký sự 海外紀事 của Thích
Đại Sán tức Thạch Liêm (1633 - 1704) 釋大汕 là một tài liệu khá cần thiết trong
việc nghiên cứu hàng hải và tàu thuyền dân tộc . Một số chỗ cần góp ý
.
Tr 48 " Gần trưa , khia thuyền
, gió xuôi, nước thuận , thuyền đi mau như bay.Còn cách Hồ Môn chừng một dặm ,
thuyền bỗng mắc cạn; lỗi do người coi lái tự ý làm tài., không theo đường lối do
thuyền con chỉ dẫn . Bánh lái mắc kẹt ở dưới, thuyền không tiến được; gió đè ở
trên, buồm chưa kịp thả lèo. Một tiếng ầm, thuyền nghiêng một bên , ve thuyền
chấm nước ,ai nấy đều thất sắc, cầm chắc thuyền phải vỡ tan. Vội vã xả buồm ,
mọi người đứng về phía trên gió, ba chiếc thuyền con và mấy trăm người lôi kéo,
thuyền vần chẳng nhúc nhích chút nào. ....Xét chỗ có tiếng ầm lúc nãy , thấy
miếng ván giáp đà (phụ bánh lái ) bị gãy, vĩ lư (chỗ xỏ bánh lái ) cũng hơi xẻ
nứt ....
tr 59 " Ngày 24, thuyền chủ viết lên cột buồm máy chữ lớn
như sau " Ai thấy núi trước, thưởng tiền một quan " .Mọi người đều hớn hở , tỏ ý
vui mừng . Trên thuyền có thủy thủ tên A Ban , người An Nam , chưa đầy 20 tuổi
,cường tráng lanh lẹn, mỗi lúc treo buồm, hắn leo tuốt lên ngọn cột , giăng dây
thắt đõi, qua lại như đi đất bằng ; hắn vừa đứng trước mặt , ngó lên đã thấy
ngồi trên đọt buồm .Suốt ba ngày còn tít mù, chẳng thấy bóng núi. Qua ngày 27 ,
gần đúng Ngọ ,có người reo lớn trên đầu cột :Kia kìa, núi đó rồi ! Người đó
chính là A Ban vậy
tr 117 " Quốc vương đã ra lệnh cho thuyền "điển xá " (
thuyền đánh ca đón tiếp đồ đệ và hành lý
Điển xá 澱舍 theo Phạm Hòang Quân là thuyền lớn ; Phân tích
澱 điến âm Bắc Kinh là diàn cặn,
thuốc nhuồm chàm ; 舍 xá shè , quán trọ , nhà ; Tra cứu thì thấy ý của PH Quân là
đúng hơn
tr 190 " Đến ngày 28, chừng canh ba, Cai bá , Giám quan
bắt "hồng thuyền " và thuyền điển xá , mỗi thứ 8 chiếc để chở chuyên hành lý .
Tra trên mạng thì hình như chỉ dùng trong Hải ngoại kỷ sự để chỉ con
thuyền
Hồng thuyền 紅船.hóng chuán Theo mạng Wiki Zh , đó là loại
thuyền phổ biến tại Quảng Đông dùng cho các gánh hát , thân thuyền sơn đỏ . Có
buồng cho các diễn viên
tr 190 " Đầu thuyền ngồi một vị quan , đuôi thuyền đứng
một người cầm lái , giữa thuyền sáu mươi bốn quân nhân đứng chèo , giữa khoang
thuyền có bốn cọc nạng sơn son, trên bắc ngang một cây mõ gỗ, một người lính
ngồi gõ mõ làm nhịp cho những người đứng chèo ...Thuyền dài và hẹp như hình long
chu , mũi cất cao , đuôi thuyền sơn đỏ , giữa không thấy để bếp nấu ..
tr 207 " Cai bá khởi ba hồi trống lệnh, các thuyền đều
lên chèo . Trong thuyền đèn lửa tắt hết . Cai bá đứng trước mũi thuyền , cầm một
dây hỏa mai ra hiệu ; hoặc bát hoặc cạy , khi chậm khi mau , các thuyền đều ngó
theo hỏa hiệu lái chèo , chẳng hề sai chạy .
tr 230 " Một chiếc tàu hiệu mã tào (tàu ngựa) ra biển
chạy trước thuyền ta mấy ngày , bữa nay cũng lui trở lại . Tàu ấy có tiếng chạy
hay nhất trên biển , bạn thuyền cũng tinh nhuệ , đến nay đã ba lần ra chạy , đều
phải trở lui ; Bởi vậy mọi người đều quyết ý "áp đông " (tức chờ qua mùa
đông)
Mã tào 馬艚 Mǎ cáo Phân tích 艚 gồm bộ 舟 chu và 曹 tào -
nhóm, bầy đàn , họ Tào .Không tìm thấy chữ này qua Google ; chỉ thấy 马槽 bộ mộc
với nghĩa là cái máng ngựa !
Ngoài ra còn có các tên thuyền :
Điền cô đĩnh 田姑艇
VỀ ĐỊA DANH “VẠN
LÝ TRƯỜNG
SA”
TRONG TÁC
PHẨM HẢI NGOẠI KỶ
SỰ
Phạm Hoàng
Quân
Hải
Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển
Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy
đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi
trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác,
không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963
không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần phân tích cặn
kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản dịch, dẫn đến
việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận văn hoặc bài
nghiên
cứu.
Bản dịch Huế ra đời cách nay đã 50 năm, các dịch giả thời ấy có thể chưa mấy
quan tâm đến các yếu tố dính dáng đến địa lý trong ký sự này. Ngày nay, trong
điều kiện tư liệu khá hơn, chúng tôi xem lại các bản gốc chữ Hán, so sánh chúng
và đối chiếu bản dịch với các bản gốc, tạm thời điều chỉnh mấy chỗ sơ suất trong
bản dịch Huế 1963, và bên cạnh cũng bổ sung các thông tin mới (sau 1963) cùng
một số chú thích cho rõ nghĩa
hơn.
Nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự đề cập nhiều lãnh vực, khảo sát này chỉ chú
trọng và tìm hiểu riêng về những yếu tố liên quan đến lộ trình và địa danh, qua
đó nhằm phân tích điểm hợp lý hoặc không hợp lý trong những điều được ghi chép
bởi chính tác
giả.
I. Khái lược
về văn bản
Hải Ngoại Kỷ
Sự (6 quyển), Thanh/1695 – Thích Đại
Sán.
海外紀事 - 清 康煕三十五年 - 釋大汕
Haiwai Jishi – Qing/ 1695
– Shi Da
Shan
Record of events of
Overseas
Bút ký, ghi chép của tăng nhân
Quảng Đông sau chuyến đi đến xứ Đàng Trong (Miền Trung Việt Nam), về nhân vật,
phong tục, vật sản, tín ngưỡng và những điều nghe thấy trên
đường.
Lời tựa của Đại Việt Quốc
vương Nguyễn Phước Chu (阮福週), đề
tháng 5 năm Bính tý (1696); lời Tựa của người ở Dũng Giang là Cừu Triệu Ngao
(仇兆鼇), đề
tháng Giêng năm Khang Hi kỷ mão (1699); lời Tựa của người ở Ngô Giang là Từ Cửu
(徐 [金九]), không
đề năm; lời Tựa của người ở Tấn Lăng là Mao Đoan Sĩ (毛端士) đề tháng
8 năm Khang Hi kỷ mão
(1699).
Đại Sán, họ Từ
(徐) tên
Thạch Liêm (石濂), pháp
hiệu Đại Sán, hiệu Hán Ông Hoà thượng (厂翁和尚), người
Ngô Huyện, Giang Tô, tu ở chùa Trường Thọ, Quảng Đông. Lai lịch có nhiều thuyết,
hành tung khá phức tạp. Mùa xuân năm Khang Hi ất hợi, đến Đại Việt do được Chúa
Nguyễn Đàng Trong mời sang thuyết
pháp.
Hải Ngoại Kỷ Sự qua ghi nhận trong
“Tứ Khố Tổng Mục Đề
Yếu”:
史部三十四
地理類存目七
海外紀事
六卷
浙江巡撫採進本
國朝釋大汕撰。大汕廣東長壽寺僧。康熙乙亥春。大越國王阮福週。聘往說法。越歲而歸。因記其國之風土。以及大洋往來所見聞。大越國者。其先世乃安南贅壻。分藩割據。遂稱大越。卷前有阮福週序。題丙子蒲月。蓋康熙三十五年也。
Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu,
Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7:
Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển
Bản do Tuần phủ Chiết Giang tìm
được dâng
lên.
Sách do Thích Đại Sán triều ta
[Thanh] soạn. Đại Sán là Tăng nhân chùa Trường Thọ, mùa xuân năm Ất Hợi được
Quốc vương Đại Việt Nguyễn Phúc Chu mời sang thuyết pháp. Qua một năm trở về,
nhân ghi chép về phong thổ nước ấy, cùng những điều tai nghe mắt thấy khi qua
lại biển lớn. Nước Đại Việt, nguyên đời trước là rể của [chúa]
An Nam,
phân cõi chiếm cứ, xưng hiệu Đại Việt. Trước sách có lời Tựa của Nguyễn Phúc
Chu, đề tháng 5 năm Bính Tý, nhằm năm Khang Hi thứ
35.
|
Các phần liên quan
đến Vạn
Lý Trường Sa, xem
trong:
Quyển 3, tờ 23b,
24a.
Quyển 4, tờ 16a ; tờ
21b
Các bản Hải Ngoại Kỷ Sự đã xuất
bản và lưu
hành:
* Bản nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng
Mục, Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục
7.
Quân chú: Sách được nhập Tứ
Khố Toàn Thư Tổng Mục không phải là sách thuộc <>, mà chỉ lưu tên sách và mấy dòng đề yếu, bản
sách nằm trong kho, chờ đọc duyệt hoặc tiếp tục thẩm định nội dung coi có điều
gì trái với quan điểm Thanh đình hay không, chưa được chép nhân bản hoặc khắc in
nhân bản. Do không phân biệt được Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục (sách tổng mục lục)
và <> (sách tập hợp thành tùng thư) là 2 bộ phận khác
nhau nên giới nghiên cứu Việt Nam thường hay gắn
sách Hải Ngoại Kỷ Sự thuộc
<> cho có vẻ quan trọng.
Gần đây, tiêu biểu như Thạc sĩ Trần Văn Quyến trong bài
viết: “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012 ].
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, hiện tàng Bắc Kinh Đồ Thư Quán.
[北京圖書館藏清康煕寶鏡堂刊本]
* Bản khắc in: Bảo Kính Đường khắc
bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, lời Bạt của Phó Tăng Tương. [清康煕寶鏡堂刊本傅增湘跋] (theo Trung Quốc Cổ Tịch Thiện
Bản Thư Mục- Sử bộ, quyển 6, tờ 60a.)
* Bản khắc in: không đề năm và nơi
khắc in, hiện tàng (Nhật Bản) Đông Dương Văn Khố [The Toyo
Bunko – Oriental Library/東洋文庫藏本].
* Hải Ngoại
Kỷ Sự, trong tùng thư <>, tập thứ 6, Thượng
Hải: Thượng Hải Tiến Bộ Thư Cục, (?) [海外纪事, 屬 叢書 <<筆記小說大觀>>,第六輯,第六函, 上海進步書局]
* Bản in: “Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển”, Thích Đại Sán soạn, in trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Trần Kinh Hoà biên trứ, thuộc <>, Đài Bắc: Trung Hoa Tùng Thư Uỷ Viên Hội – Đài
Loan Thư Điếm, 1960. (phần Hải Ngoại Kỷ Sự được in chụp từ
bản Đông Dương Văn Khố).
[Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Shi qi shi ji Guang nan zhi xin shi
liao, Chen Jinghe bian zhu, <>, Taibei : Zhonghua
cong shu wei yuan hui : Taiwan shu dian zong jing xiao, 1960.
/ 海外纪事
六卷 ,(清)释大汕著
載中
“十七世紀廣南之新史料”,陳荊和编著,<<中華叢書>>,台北:中華叢書委員會: 台灣書店總經銷,
1960.(影印東洋文庫藏本) ].
Quân chú: Sách này gồm 160 trang, chia làm 2 phần, phần khảo cứu về Hải Ngoại
Kỷ Sự của Trần Kinh Hoà và phần nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự (in chụp).
Do ông Trần Kinh Hoà đặt cho sách nhan đề “ Sử liệu mới về Quảng Nam hồi thế kỷ
17”, nên dễ bị lầm tưởng đây chỉ là một tập sử liệu tổng
hợp.
* Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh)
Đại Sán trứ, Dư Tư Lê điểm hiệu (giới thiệu và chấm câu), thuộc tùng thư
<>, Bắc Kinh: Trung
Hoa Thư Cục, 1987, 2000. [ Haiwai Jishi – (Qing) Da Shan write, Yu Sili
introduce, in <>, Beijing:
Zhonghua Shuji, 1987,
2000./ 海外紀事,(清)大汕 著 - 余思黎 點校,<<中外交通史籍叢刊 >>, 北京: 中華書局,1987,2000.].
Quân chú: Bản in này là một sách in chung 2 tác phẩm: phần trước là An Nam
Chí Lược của Lê Tắc, do Võ Thượng Thanh (武尚清)
điểm hiệu, 447 trang, phần sau là Hải Ngoại Kỷ Sự, Dư Tư Lê điểm hiệu,
140 trang.
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch
Xuất bản xã, 1995. (ảnh ấn
bản)
* Hải Ngoại Kỷ Sự,
(Thanh) Đại Sán trứ, Sơn Đông: Tề Lỗ Thư Xã xuất
bản, 1997. (ảnh ấn
bản).
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Đại Sán soạn, trong tùng
thư <>, ảnh ấn bản (Khang Hi) Bảo Kính Đường khắc bản
cất tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã,
2002. [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan
zhuan, in <> , ju
Beijing Tu Shu Guan cang Qing Kangxi Bao Jing Tang ke ben ying yin, Shanghai :
Shanghai Guji chu ban she, 2002 / 海外纪事六卷(清)释大汕 撰, <<續修四庫全書>>,據北京圖書館藏清康熙寶鏡堂刻本影印,上海 : 上海古籍出版社, 2002.]
Bản dịch sang Việt văn [bản dịch
Huế 1963]:
* Hải Ngoại Kỷ Sự 6
quyển, (Thanh) Thích Đại Sán soạn,
Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Trần Kinh Hoà viết bài Khảo cứu, Viện Đại
Học Huế - Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Huế, 1963. [ dịch
theo bản Đông Dương Văn Khố]. (Bìa trong của bản dịch ghi sai là “Toàn bộ: 7
quyển”, gần đây Nguyễn Văn Đăng sai theo, xem Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,
số 1, 2012, tr.115.)
II. Tóm tắt lộ
trình.
Đêm 15 tháng Giêng [rằm Thượng
Nguyên] năm Ất Hợi ( Khang Hi thứ 34 – Tây lịch: 27/2/1695) Đại Sán cùng tuỳ
tùng 50 người lên thuyền tại Hoàng Phố, thuyền quá tải, đoàn người chia hai tốp,
một tốp ở lại chờ chuyến sau, Đại Sán đi trong chuyến
đầu.
Ngày 16 tháng Giêng, ngang qua
Đông Hoản, Hổ Môn, Việt Hải quan, Ô Trữ Sơn, Lỗ Mạn Sơn. [hải phận Quảng Đông,
Thanh]
Ngày 27 tháng Giêng, đến Cù lao
Chàm, vào Hội An, đổi
thuyền.
Ngày
28 tháng Giêng, tới Thuận Hoá. Trú ở chùa Thiền
Lâm.
Ngày
13 tháng 3, tốp thứ hai tới Thuận
Hoá.
Ngày
mùng 1 tháng 7, Đại Sán trở lại Hội
An.
Ngày
mùng 2 tháng 7, Đại Sán tới Hội An. Trú tại chùa Di
Đà.
Ngày
19 tháng 7, Đại Sán lên thuyền buôn rời Hội An, về Quảng
Đông.
Ngày
20 tháng 7, sáng, đến Cù lao Chàm, nghỉ tạm chờ
gió.
Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra
khơi.
Ngày
mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm, sau vài hôm
trở vào Hội
An.
Ngày
12 tháng 10, theo đường bộ ra Thuận Hoá, qua đèo Hải
Vân.
Ngày
Rằm tháng 10, sáng, đến cửa biển Thuận An, có thuyền chờ sẵn, lên thuyền, tối,
tới chùa Thiên Mụ. Lần này đến Thuận Hoá trú tại chùa Thiên
Mụ.
Hải Ngoại Kỷ Sự chép
rõ ngày tháng chỉ đến
đây.
Lịch trình chuyến về Quảng Đông không thấy Đại Sán chép rõ như chuyến đi. Liên
quan đến chuyến về chỉ thấy qua các chi tiết tản mác
trong:
1/
Lời Tựa của [Chúa] Nguyễn Phước Chu, đề “Tháng 5 (Bồ nguyệt) năm Bính tý”,
và trong lời Tựa cũng viết: “Hoà thượng trích lục một số việc, góp lại thành
tập, nhan đề Hải Ngoại Kỷ Sự, lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta
viết bài tựa”. (HNKS, Tựa, Bản dịch Huế, 1963,
tr.10)
2/
Trong quyển 5, sau rằm tháng 10 năm ất hợi, Đại Sán gặp chúa Nguyễn, nhân trong
lúc nói chuyện, ngỏ ý xin tài trợ năm ngàn vàng (五千金 / ngũ
thiên kim ?) để trùng tu chánh điện chùa Trường Thọ ở Quảng Đông, chúa hứa góp,
nhưng muốn biết lai lịch chùa này. Đại Sán về viết một bài văn sớ kể lại nhơn
duyên trùng tu, đem dâng. “Vương duyệt
xem lá sớ, gật đầu nói rằng: ‘ Mùa
xuân sau Lão Hoà thượng về, thay ta xây cất điện đường chùa Trường
Thọ’.” (Bản
dịch Huế, 1963,
tr.204)
3/
Giữa quyển 3, Đại Sán viết: “Mùng 3
tháng 6 [ất hợi], cáo từ Quốc Vương, định đến ngày 15 sẽ xuống Hội An, liệu lý
đường về cho kịp mùa gió thu.” (Bản dịch Huế,
tr.125)
4/
Cuối quyển 6, Đại Sán viết chung chung là: “Mùa
xuân năm Ất Hợi đến nước Đại Việt, định ở qua một năm, ngày về đã định vào tiết
đầu thu.”(Bản dịch
Huế,
tr.234)
Như căn cứ vào HNKS thì không biết cụ thể ngày về của Đại Sán, chỉ biết đại khái
là sau tháng 5 năm Bính
Tý.
Trong bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà in chung trong bản dịch HNKS, thấy ông
Trần căn cứ vào các báo cáo của thuyền buôn nộp cho quan chức Quảng Đông, cho
biết Đại Sán rời bến Hội An vào ngày 22 hoặc 24 hoặc 26 tháng 6 và về đến Quảng
Đông độ giữa tháng 7 năm Bính Tý
(1696).
Tóm lại, qua lịch trình chuyến đi từ Quảng Châu đến Thuận Hoá và chuyến về hụt
từ Cù lao Chàm vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1695, chúng ta có thể biết được
thương thuyền chở Đại Sán đã đi theo con đường biển ngoài khơi ngang qua phía
đông đảo Quỳnh Châu. Trong HNKS, tên Vạn Lý Trường Sa được đề cập hai lần, tên
Trường Sa được đề cập hai lần, nằm trong ba đoạn
văn.
Những điều phải lưu ý là, tại đoạn văn quan trọng có nói đến khoảng cách [canh,
dặm] giữa Hội An với Vạn Lý Trường Sa thì Đại Sán đã không ghi chép ở góc độ
trực tiếp mà là nghe kể lại. Ở hai đoạn khác, địa danh Vạn Lý Trường Sa và
Trường Sa được nói đến trong lần Đại Sán trở về không
thành.
III. Về
ba đoạn văn liên quan đến địa danhVạn
Lý Trường
Sa.
Các đoạn nguyên tác dùng để khảo
sát trong bài viết này căn cứ
vào:
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, bản chụp PDF lưu hành trên
mạng.
* bản in khắc Hải Ngoại Kỷ
Sự 6 quyển lưu tại [Nhật Bản] Đông Dương Văn Khố, in chụp,
trong Thập
Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử
Liệu, Đài Loan
Thư Điếm xuất bản,
1960.
* bản gõ chữ điện tử (phồn
thể) Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Dư Tư Lê giới thiệu và chấm câu, Trung Hoa
Thư Cục xuất bản,
2000.
Các đoạn nguyên tác dưới đây
được gõ lại từ bản Đông Dương Văn Khố, đối chiếu bản Bắc Kinh Đồ Thư Quán, đối
chiếu và chấm câu theo cách chấm câu của Dư Tư
Lê.
1/
Đoạn văn thứ
nhất.
Nếu đúng như thông lệ ghi chép ký sự, tức ghi theo lịch trình, thì đoạn văn liên
quan đến Vạn Lý Trường Sa sẽ được đề cập trong bối cảnh vào tháng giêng, lúc
thương thuyền chở Đại Sán đang lênh đênh trên biển, trên tuyến đường từ Lỗ Mạn
Sơn hướng đến Cù Lao Chàm, và đoạn văn này- tương ứng với lộ trình - sẽ thuộc
đầu quyển 1 của kỷ sự. Nhưng thực tế ghi chép trong HNKS không phải như vậy,
đoạn văn liên quan Vạn Lý Trường Sa được chép ở giữa quyển 3, trong bối cảnh:
thời gian khoảng cuối tháng 5 ; địa điểm tại nhà khách chùa Thiền Lâm ở Thuận
Hoá, do Đại Sán nghe một người khách kể chuyện và ghi lại, toàn văn như
sau:
“客有言:歸帆風信,須及立秋前後半月,西南風猛,一帆風順四五日夜便抵虎門.處暑後北風漸起,水向東流,南風微弱,不敵東歸流急,難保為穩便矣.蓋洋海中橫亘沙磧,起東北直抵西南,高者璧立海上,低或水平沙面,粗硬如鐵,船一觸即成虀粉.闊百許里,長無算,名萬里長沙.渺無草木人煙,一失風水漂至,縱不破壞,人無水米,亦成餒鬼矣.去大越七更路,七更約七百里也.先國王時,歲差澱舍往拾壞船金銀器物云.秋風潮涸,水盡東洄,一浪所湧,即成百里,風力不勁,便有長沙之憂.”
(海外紀事 - 卷三,頁23後24前)
Bản dịch Huế 1963
(tr.125):
“ Khách có người bảo, mùa gió
xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết Lập thu; chừng ấy,
gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể đến
Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bắc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng
đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy sẽ
khó giữ được ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ
đông bắc qua tây nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt
nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát
rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “vạn lý
trường sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước
tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà
thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm.[1] Thời
Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá [2] đi dọc theo bãi cát,
lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút
về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức
gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ trường
sa.”
Đính
chính:
[1] Câu trong nguyên văn: “khứ
Đại Việt thất canh lộ, thất canh ước thất bách lý [去大越七更 路,七更約七百里也.]”. Trong câu
này có hai điểm sai, một của người dịch và một của người
viết.
Lỗi của bản dịch đã được chủ
nhân blog Đông A nêu ra hồi năm 2009 (ngày 14 tháng 3), rằng thất
canh nếu dịch sát nghĩa thì phải là bảy canh, không thể dịch
là bảy ngày, đây là phát hiện đúng và quan trọng về một lỗi sai rất cần
được điều chỉnh.1
Lỗi của người viết (Đại Sán)
là quy đổi sai cách tính canh sang dặm. Câu văn này dịch sát nghĩa
sẽ là : “Khoảng ấy cách Đại Việt bảy canh, bảy canh ước chừng bảy trăm lý
(dặm)”. Đọc lại toàn đoạn văn trích nêu trên, chúng ta thấy Đại Sán chỉ nghe mà
viết lại, điều này cũng chứng tỏ ông ta chưa biết gì về Vạn Lý Trường Sa, nội
dung HNKS còn cho thấy Đại Sán không từng đi biển, các lý do này dẫn đến việc
ước đoán, quy đổi canh sang dặm có sự chênh lệch quá lớn so với quy chuẩn đương
thời.
Đương thời, canh trong hàng hải
tuy được hiểu như là một lượng từ, là đơn vị tính lộ trình đường thuỷ, nhưng
trên thực tế, vận tốc thuyền buồm đi biển phải chịu sự lệ thuộc vào sức gió nên
loại đơn vị này không thể cho tương đương với số lý (dặm) cụ thể được,
sách Đông Tây Dương Khảo (1617) do Trương Nhiếp viết - trước HNKS 80 năm
– cho biết: “ Như muốn biết đường đi xa gần bao nhiêu, lấy chuẩn một ngày đêm
[trong điều kiện] gió thuận là 10 canh, ước đi được mấy canh, thì biết tới xứ
nào.”2. Trong Minh
Sử (1737) cũng có đoạn nói về canh: “Đường thuỷ, gặp gió thuận, từ Kê Lung,
Đạm Thuỷ [bắc Đài Loan] đến cảng Phúc Châu [Phúc Kiến] 5 canh thì tới. Từ cảng
Đài Loan đến đảo Bành Hồ 4 canh thì tới…Bởi đường biển không thể đo tính bằng lý
(dặm), nên người đi biển chia một ngày đêm làm 10 canh, rồi theo số canh mà tính
ra dặm đường.”3. Trong Hải Quốc Văn
Kiến Lục (1730), Trần Luân Quýnh nói có vẻ cụ thể hơn: “ …[thuật đi biển
của] Trung Quốc dùng la bàn, vạch đồng hồ cát, coi gió lớn nhỏ thuận nghịch mà
đọ số canh, mỗi canh đường thuỷ ước chừng 60 lý, gió lớn mà thuận thì tính thêm,
nước triều cao gió nghịch thì giảm xuống, coi theo đó thì biết đến xứ
nào.”4.
Qua các ghi chép về canh và
dặm trên đây ta thấy được cách tính khá thống nhất của người đi biển, mỗi ngày
đêm chia ra 10 canh, mỗi canh đi được trên dưới 60 lý [~ 30 km]. Các ghi chép
này đều rất gần với thời điểm ra đời HNKS, Đại Sán không rành việc đi biển nên
ước chừng mỗi canh = 100 lý, chênh lệch quá
xa.
[2] Nguyên văn viết: điến
xá [澱舍], bản dịch
dịch là thuyền
đánh cá. Trong HNKS, thấy có bốn loại
thuyền của xứ Đàng Trong được chép theo dạng tên riêng, gồm: điền cô đĩnh
[田姑艇], hồng
thuyền [紅船], mã
tào/tàu [馬艚], điến xá
[澱舍]. Trong
bốn loại này, điền cô đĩnh được mô tả là loại thuyền đánh cá; hồng thuyền là
loại thuyền quan dụng, hình dáng thon dài như thuyền rồng, có 64 tay chèo; mã
tàu là thuyền đi nhanh nhất; điến xá là loại thuyền lớn nhất (có lẽ chuyên dụng
cho việc chở hàng hoá). Tôi chưa khảo sát thật kỹ và so sánh mở rộng về các ghi
chép này, tuy nhiên, sơ bộ cho thấy nên dịch điến xá là thuyền
lớn có lẽ hợp với bối cảnh đoạn văn hơn dịch là thuyền đánh cá. Để
làm sáng tỏ vấn đề này, cần phải có các cuộc điền dã ven biển từ vùng Hội An đến
Thuận An để tìm hiểu xem tên ghe tàu hoặc các bộ phận ghe tàu mà dân đi biển
ngày nay quen gọi có liên hệ gì về mặt ngữ âm so với tên bốn loại thuyền kể trên
hay không.
Lưu ý, bản
dịch không viết hoa các địa danh “vạn lý trường sa” và “trường sa”, cũng có thể
do lỗi sắp
chữ.
2/
Đoạn văn thứ
hai.
Đoạn văn này được viết trong bối cảnh lần về không thành, thuyền buôn chở Đại
Sán khởi hành tại Tiêm Bích La (Cù lao Chàm) vào sáng ngày 30 tháng 7 năm 1695
(chép trong Quyển
4):
“是時船正疾行皆不理論而南吹漸微舟所進幾與所退相敵頃刻大雨北風猛作勢不可支舉船盡以長沙為憂.余披依持咒久之東南一陣颶風陡起黑夜雲霾手不見掌各倉惶聽命總管見龍行隱隱飛舞於船左右約一更龍去從前北風所飄流之路須臾盡復風雨後海光天色照灼遠近至是而歸心始灰矣平明霽色見山痕澹澹不數十里外仍是尖碧蘿也隨風竟返至山港舟人擊鼓賽神各加額曰餘生再造也”
(海外紀事 - 卷四, 頁16前-後)
Bản dịch Huế
(tr.161):
“lúc
ấy thuyền đang đi mau, chẳng để ý bàn giải. Gió nam thổi dịu dần, thuyền chạy
vát tới vát lui, chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng chốc mưa lớn, gió bắc thổi
mạnh, thế không chạy tới được, cả thuyền đều lo ngại vì quãng đường Trường Sa
(Bãi dài). [1] Ta khoát y vào niệm chú. Hồi lâu, phía đông nam một trận gió
bão nổi lên, đêm tối mây mù, ngữa bàn tay chẳng thấy. Mọi người đều sảng hồn,
mường tượng trông thấy rồng bay múa hai bên thuyền, ước chừng một canh, rồng bay
đi. Khoảng đường gió bắc thổi đi nảy giờ, trong giây phút đã thấy thuyền trở lại
chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời sắc biển sáng suốt gần xa; đến đây lòng về đã
nguội lạnh hết
vậy.
Sáng ngày, mây tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách chừng vài mươi
dặm, vẫn thấy đảo Tiêm Bích
La. Theo
gió xuôi vào sơn cảng, người trong thuyền đánh trống tạ thần, đều giơ tay lên
trán nói rằng: ‘Thực
là sống sót’.”
Lưu
ý
[1] Trong đoạn văn này “Trường
Sa” được hiểu như địa danh, xem đoạn văn 1 và 3 “vạn lý trường sa” không viết
hoa.
3/
Đoạn văn thứ
ba.
Đoạn văn này có nội dung gần giống đoạn 2 (trên). Mấy ngày sau khi thoát nạn trở
lại Hội An, Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn, kể lại tình cảnh của lần về không
thành (chép trong quyển
4):
“及上洋艚秋經白露船主夥長皆言北風甚急帆不能放老僧持咒祈請南風次日西南風起擊鼓鳴鑼揚帆出海經兩晝夜北風漸作行莫能前於是再祈午後南吹滿篷*正發巾頂疾行時忽然北風飛浪大雨傾盆龍騰蛟起地覆天翻幾乎有萬里長沙魚腹之患矣余惟默坐持咒正在慌忙無措處陡作一陣東風將船送回碧蘿山下.”
(海外紀事 - 卷四, 頁21前-後)
* bản
khắc in chữ Bồng bộ Trúc [篷],
bản Dư Tư Lê gõ chữ Bồng bộ Thảo [蓬]
Bản
dịch Huế
(tr.167):
“Đến
lúc Lão tăng lên tàu, tiết thu đã muộn. Thuyền chủ và đồng bạn [1] đều
bảo rằng gió bắc thổi mạnh, chẳng khá buông buồm. Lão tăng niệm chú cầu gió nam.
Qua ngày sau, gió tây nam thổi lên, trống đánh chiêng hồi, dương buồm ra
biển, đi được hai ngày đêm, [2] gió bắc lại thổi lên, thuyền không đi
được. Lão tăng lại cầu gió. Chiều lại gió nam thổi thẳng buồm. Thuyền đương đi
rất mau, bỗng gió bắc nổi dậy, mưa như trút vò, rắn múa rồng bay, trời long đất
lỡ, cơ hồ giữa bãi dài muôn dặm, [3] chẳng khỏi bụng cá chôn thây. Ta chỉ
ngồi lặng thinh niệm chú. Trong lúc hoang mang bó tay chờ chết, bỗng một trận
gió đông nam đưa thuyền trở lại đảo Tiêm Bích La.[4]”
Đính
chính
[1]
Lỗi dịch, nguyên văn viết Khoả trưởng [夥長],
dịch đồng bạn là không chính xác, Khoả trưởng là một cách gọi người giữ
la bàn, trực canh việc định hướng cho
tàu.
[2]
Lỗi viết, câu đi được hai ngày đêm không ăn khớp với số ngày cũng do Đại
Sán viết ở những đoạn khác, ở các đoạn khác ghi chép cho thấy thời gian ra đi và
giạt trở về chỉ “một
ngày đêm” [Ngày
30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi. Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị
gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm (xem phần II, Tóm tắt lộ trình)].
Qua chi tiết này, thấy Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn không trung
thực.
[3] Câu này
cho thấy người dịch không xem Vạn Lý Trường Sa là địa danh , nên đã dịch là “bãi
dài muôn
dặm”.
[4]
Lỗi dịch, nguyên văn viết: Bích La Sơn hạ [dưới (chân núi) Bích LaSơn], dịch
là đảo
Tiêm Bích La chưa chính
xác lắm, tuy nhiên,
do có sự đồng danh Tiêm Bích La – Bích La Sơn – Cù lao Chàm, nên đây là lỗi nhỏ,
không làm sai ý nguyên tác.
IV. Tóm
tắt một số trích dẫn và nhận định liên
quan.
1/
Quan điểm của Trần Kinh
Hoà
Bài khảo cứu của Giáo sư Trần Kinh Hoà in chung bản dịch Hải Ngoại Kỷ
Sự (1963) đã khảo sát khá kỹ về văn bản, về tiểu sử tác giả và cuộc du hành
Quảng Nam của Thích Đại Sán. Cũng như nhóm dịch giả, ông Trần Kinh Hoà giới
thiệu sách này ở góc độ tư liệu lịch sử văn hoá, các yếu tố về địa lý, địa danh
không được lưu ý. Tuy nhiên, đến năm 1989, ông Trần đã có dịp nhắc lại HNKS dưới
góc nhìn thời sự thuộc vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo trên biển Đông.
Bài viết “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố” (Nhật
ngữ) của Trần Kinh Hoà được đăng trên tạp chí nghiên cứu thuộc một đại học Nhật
Bản.5 Như tiêu đề của bài
viết “Quần
đảo Tây Sa và Nam Sa- Nhìn lại lịch sử”6,
ông Trần điểm lược một số tư liệu trong lịch sử do người Trung Quốc, Việt Nam và
phương Tây ghi chép có liên quan đến vấn đề khám phá, khai thác và xác lập chủ
quyền do Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành. Quan điểm của ông Trần trong phạm
vi toàn bài viết 20 trang này- theo phát biểu của ông – chỉ trên cơ sở liệt kê
sử liệu, với lập trường không nhận định chúng theo các hướng tranh chấp. Đoạn
văn thuộc quyển 3 của HNKS (đoạn văn thứ nhất trong bài viết này) được trích dẫn
và xếp chung trong nhóm tư liệu thuộc ghi chép của các nhà hàng hải ngoại quốc
qua lại Vạn Lý Trường Sa, đối với đoạn văn này, qua cách sắp xếp sử liệu tương
liên, thấy được chủ ý của ông Trần liệt nó vào loại tư liệu trung tính. Ở phần
kết luận bài viết, thấy có đoạn: “Mục
đích đó [việc ra đảo định kỳ] rõ ràng là thu gom những đồ vật còn sót lại của
tàu bị nạn và thu thập đồi mồi, hải sâm và vỏ sò, [điều đó] không có nghĩa là đã
có người Việt Nam sinh sống dài hạn trên đảo”, kết luận
này thuộc về phần phân tích và nhận định của ông Trần, khá dài, sở dĩ tôi trích
tạm đoạn này vì nó liên quan đến lập luận trong nhiều bài viết của một số tác
giả Việt Nam khi dựa vào câu: “Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh
cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào” để củng
cố bằng chứng chủ
quyền.
Trên đại thể, bài viết của
Giáo sư Trần mang tinh thần yêu chuộng hoà bình, mong mỏi các quốc gia xung
quanh biển Đông tìm những giải pháp ôn hoà và tôn trọng luật pháp quốc tế. Tuy
nhiên, trong cách trưng dẫn tư liệu và kèm theo nhận định ở phần kết luận rằng
“các kế hoạch thực thi chủ quyền của phía Việt Nam đã dừng lại bởi sự qua đời
của vua Minh Mạng [nguyên văn viết nhầm là Tự Đức] vào năm 1841”, nhận định này
của ông Trần có thể mang đến những cách hiểu không mấy thuận lợi cho Việt
Nam.
2/
Quan điểm của Lãng Hồ (Giáo sư Nguyễn Khắc
Kham).
Là người đầu tiên sử dụng đoạn văn có liên quan đến địa danh Trường Sa trong
việc chứng minh chủ quyền của Chúa Nguyễn, tác giả Lãng Hồ đã trích dẫn nhiều
đoạn thuộc quyển 1, quyển 3 và quyển 4 trong Hải Ngoại Kỷ Sự. Lãng Hồ nêu quan
điểm: “trong
khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đã được hành sử dưới nhiều hình thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè
ngoại quốc, thiết lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân
của các dân chài bản xứ đối với hai quần đảo đó”7. Việc
trích dẫn và quan điểm của Lãng Hồ được rất nhiều tác giả về sau ủng hộ và phát
triển.
3/
Quan điểm của Dư Tư
Lê.
Dư Tư Lê là người viết bài giới thiệu và chấm câu cho bản in HNKS
do Trung Hoa Thư Cục xuất bản
năm 1987 và tái bản
năm 2000. Bản in
này không có phần chú giải, quan điểm của Dư Tư Lê nằm ở bài giới thiệu. Trong
một đoạn của bài giới thiệu sách, Dư Tư Lê phê phán quan điểm của Lãng Hồ, cho
rằng việc căn cứ vào Hải Ngoại Kỷ Sự để lập luận về “chủ quyền” của Đại Việt là
không thuyết phục. Tuy nhiên, họ Dư không trực tiếp đi vào phân tích lý do thế
nào là không thuyết phục của các ghi chép ấy mà lại trưng dẫn bài viết “Thất
Châu Dương khảo” của Hàn Chấn Hoa, đại ý nói rằng sách Mộng Lương
Lục 8 từ thời Tống đã xác định
chủ quyền của Trung Hoa trên vùng biển phía nam, từ Thất Châu Dương [Hoàng Sa/
Tây Sa] đến Côn Lôn Dương. Bị ảnh hưởng bởi các tác giả đi trước như Hàn Chấn
Hoa, Quách Vĩnh Phương v.v, Dư Tư Lê chỉ lập lại kiểu đối chọi tư liệu để kết
luận chủ quan, đáng lẽ phải đi sâu phân tích trực tiếp các nội dung được ghi
chép bởi Đại Sán, đây là chỗ yếu kém trong bài nghiên cứu tổng quan về sách Hải
Ngoại Kỷ Sự
này.
Ngoài ra, trong những điều
liên quan trực tiếp đến các địa danh trên biển Đông ghi chép trong Hải Ngoại
Kỷ Sự, độc giả có thể đọc thêm công trình “Thích Đại Sán Cập Kỳ Việt Nam Chi
Hành/ Thích Đại Sán và chuyến đi đến
Việt Nam” của thầy
trò Đái Khả Lai - Vu Hướng Đông, in trong Trung Ngoại quan hệ sử luận
tùng, Tập thứ tư, 1992. 9
Vài lời
kết
Trong Hải Ngoại Kỷ Sự, lời
lẽ của Đại Sán tuy huênh hoang ma mị nhưng dù sao nó vẫn là một tập bút ký có
dựa trên thực tế. Các ghi chép về quan hệ đời tư giữa Đại Sán với Chúa Nguyễn
cùng các quan chức Nam Hà lộ rõ vẻ kênh kiệu khoe khoang quá đáng của tác giả,
tuy những ghi chép mô tả phong tục, địa lý tuy có chút sai lệch nhưng cơ bản vẫn
thấy được sự xác thực. Riêng các đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường
Sa qua ghi chép trong lộ trình của Đại Sán, qua phân tích, chúng ta thấy rằng dù
tác giả có nhầm lẫn về quy ước chuyển đổi đơn vị nhưng con số bảy canh tương
đương với 420 lý (~ 210 km) rõ ràng là khá phù hợp với khoảng cách từ đất liền
đến quần đảo Hoàng
Sa.
Sử dụng các loại tư liệu bên ngoài nhằm bổ sung, củng cố cho các lập luận trong
các bài viết, luận văn về vấn đề chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối
với vùng biển Đông và các quần đảo là việc làm rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải
có sự thận trọng và chính xác, mặt khác cũng chỉ nên sử dụng trong chừng mực nào
đó. Khi sử dụng các loại tư liệu này, như trường hợp sách Hải Ngoại Kỷ
Sựchẳng hạn, chúng ta cần phải cân nhắc và kiểm tra, hiệu khám thật kỹ các
đoạn văn có liên quan. Một khi sử dụng bản dịch, việc xem xét lại và điều chỉnh
những sơ suất là rất cần, các dịch giả trước đây không phải là yếu kém nhưng khi
dịch một bộ sách một pho sách phải chịu sự chi phối bởi thời gian hoặc nhiều
lĩnh vực mà nguyên tác đề cập, có thể người dịch không chuyên chú vào các yếu tố
chuyên sâu về địa lý nên dẫn đến sai sót.
Theo dõi quá trình nghiên cứu học thuật của học giới Trung Quốc cũng là một
phương diện phải quan tâm, trên bình diện chung, các nghiên cứu của họ đối với
thư tịch Hán văn cổ dĩ nhiên là sâu sát và nhiều thành tựu so với chúng ta.
Nhưng riêng về các loại tư liệu liên quan đến biển Đông thì lại khác, khi đụng
tới chủ đề này, tinh thần dân tộc cực đoan đã khiến cho sự trung thực trong
nghiên cứu khoa học của họ bị xem nhẹ, nhận ra được sự gượng gạo trong lập luận
hoặc kết luận võ đoán của học giới Trung Quốc, chúng ta mới có thể vững vàng,
linh hoạt hơn khi tiếp thu và phân tích các loại sử liệu này trong phương diện
chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam trên biển
Đông.
Cái Bè, ngày 2 tháng 8 năm
2012.
P.H.Q.
Chú
thích
1. Không
hiểu sao có một số bài viết hiểu lầm, cho rằng tôi (Phạm Hoàng Quân) đã phát
hiện lỗi dịch này và đăng trên blog Đông A. Nhân đây xin nói cho rõ, phát hiện
này là do chủ nhân blog Đông
A.
Cũng cần nói thêm một việc để rút kinh nghiệm, sai sót trong bản dịch đoạn văn
này đã được nêu ra cách nay mấy năm, mà gần đây, Thạc sĩ Trần Văn Quyến lại vẫn
sử dụng đoạn văn dịch sai này [lại không ghi nguồn dịch] trong bài
viết “Sử
liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa”[
vnexpress.net, 28/7/2012
].
2. Đông Tây
Dương Khảo, Quyển 9- Chu sư khảo, nguyên
văn: “如欲度 道里遠近多少, 凖一晝夜風利所至為十更, 約行幾更可到某處.”
3. Minh
Sử, Quyển 323- Ngoại quốc truyện, 4,
Kê Lung, nguyên văn: “水道順風自雞籠淡水至福州港口五更可達自臺灣港至彭湖嶼四更可達蓋海道不可以里計舟人分一晝夜為十更故以更計道里云.”
4. Hải Quốc
Văn Kiến Lục, Nam Dương Ký, nguyên văn:
“中國用羅 經,刻漏沙, 以風大小順逆較更數, 每更約水程六十里, 風大而順 則培累之, 潮頂 風逆則減退之, 亦知某處.”
5. Trần
Kinh Hoà, “Tây
Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố”[西沙群島与南沙群島-歷史的回顧 , 陳荊和] , tạp chí
“Nghiên cứu Châu Á Đại học Soka”, 3/1989, Số 10, tr.
49-69, Tokyo:
Đại học Soka.
6. Phần viết
này tham khảo bản Hoà văn và bản dịch Việt văn của nhóm dịch giả: Nghiêm Minh
Quang, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phạm Thị Thu Giang, Võ Đức Thắng
[ bản dịch này chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình chỉnh sửa và hiệu đính, lưu
hành nội bộ trong Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông.]
7. Lãng Hồ,
“Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập san Sử Địa, Số 29- Đặc khảo về
Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1/1975, tr.54-112.
8. Mộng Lương Lục, 20 quyển,
Tống/+1275 – Ngô Tự Mục (?-?)
[夢梁錄 - 宋 - 吳自牧/Meng
Liang
Lu – Song/
+1275 - Wu Zimu
The Past seems a Dream
(description of the capital, Hangzhou)].
Bút ký học thuật, ghi chép về địa lý, phong thổ, luật tục, văn hoá nghệ thuật
vùng Hàng Châu. 20 quyển phân làm 169 điều mục, thu thập nhiều tư liệu ngoài sử.
Tiểu sử tác giả không rõ. Mộng Lương
Lục là một trong 8 sách được dẫn dụng trong “Văn
kiện xác định chủ quyền” do Bộ Ngoại Giao nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa
công bố ngày
30.1.1980.
9. 戴可來 - 于向東, 釋大汕及其越南之行,載於: 中外關系史論叢 -第四輯 ,
1992.
-------------------------
Bài đăng trên Tạp chí điện tử Diễn
Đàn, 5 tháng Chín 2012 / www.diendan.org/.../ve-dia-danh-van-lu-truong-sa-trong-hai-ngoai-ky-su .
In trong Tạp chí Nghiên cứu và
Phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 6 (95).
2012.