Nhận xét sơ bộ:
Bài tổng hợp làm ẩu,giữ nguyên các địa danh theo cách gọi
của Trung Quốc và có lẽ lần đầu tiên công nhận cách gọi TQ đỏ là Trung Cộng,mặc
dù chữ Trung Cộng được TQ dùng thoải mái để chỉ cộng sản TQ nhưng với VC cho là
có hàm ý xấu !!
Điều khó hiểu về tù binh trong hải chiến Hoàng Sa (Kỳ 3)
07:00 | 08/01/2014
(PetroTimes) - Đề cập đến việc trao trả các binh sĩ VNCH
bị Trung Cộng bắt giữ sẽ làm rõ nhiều vấn đề, nhất là về thái độ của các nước có
liên quan trực tiếp là Trung Cộng và VNCH cũng như tổ chức Hồng thập tự quốc tế,
bởi việc trao trả tù binh “không như bình thường”, báo chí đương thời bị bưng
bít nhiều thông tin, không tiếp cận được với các tù binh và những người thực
hiện việc trao trả tù binh.

Sau khi cuộc hải chiến diễn ra, cả hai bên giao chiến đều
có những thiệt hại nhất định dù ưu thế quân sự nghiêng về Hải quân Trung Cộng.
Bởi vậy, việc bắt chiến sĩ Hải quân VNCH làm tù binh theo những thông tin báo
chí lúc bấy giờ có những sắc thái khác nhau. Trong tổng số các chiến sĩ
VNCH tham gia vụ Hoàng Sa, sau cuộc đụng độ đã phân tán thành 4 bộ phận khác
nhau.
Bộ phận thứ nhất, điển hình là các chiến sĩ
thuộc Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), dù bị trúng đạn nhưng Tuần hạm
dương vẫn còn hoạt động được và về đến Sài Gòn. “Ngày 30-1-1974, Tuần dương hạm
Lý Thường Kiệt trúng đạn Trung Cộng về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể
tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ
đoàn".
Bộ phận thứ hai là do phương tiện chiến đấu bị
hư hỏng nên không thể hoạt động hoặc bị chìm, sau đó được cứu trợ bởi tàu nước
ngoài như trường hợp của 23 thủy thủ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). “Chiếc
hộ tống hạm trên chở 82 thủy thủ nhưng tàu của Hà Lan chỉ cứu vớt được 23 người.
Theo thiếu tá Trần Văn Ngà, phụ tá phát ngôn viên quân sự trong số 23 chiến sĩ
khi về tới Đà Nẵng, có hai người chết là Đại úy phó hạm trưởng và một hạm viên,
21 thủy thủ còn lại có 2 người bị thương nặng".
Bộ phận thứ ba là do Hải quân Trung Cộng bắt làm
tù binh, “tổng số người mất tích theo lời phát ngôn viên quân sự là 116 nhưng
nhà cầm quyền Trung Cộng nói, họ chỉ cầm giữ 48 người".
Bộ phận thứ tư chính là những chiến sĩ VNCH đã
bị mất tích trên biển. Tuy nhiên, có 3 vấn đề đáng lưu ý là: Hải quân Trung Quốc
không bắt tất cả các chiến sĩ Hải quân VNCH mà họ có thể bắt làm tù binh; sự im
lặng bất thường trong việc trao trả tù binh và sự trọng thưởng của chính quyền
VNCH đối với các chiễn sĩ tham gia trận hải chiến Hoàng Sa. Ba vấn đề này có
liên hệ khắng khít với nhau.
Các binh sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) sau khi bị
hỏa tiễn của Hải quân Trung Cộng bắn trúng hầm chỉ huy và bị chìm, trong khi đó
tàu của Hải quân Trung Cộng đi ngang qua chứng kiến tình trạng này nhưng họ
không đến bắt mà bỏ đi như lời khai của các bĩnh sĩ của Hộ tống hạm này, sau khi
được cứu vớt và về đến đất liền: “Chúng tôi có thể sắp bị bắt làm tù binh. Tôi
ngoắc thủy thủ đoàn trên tàu của Trung Cộng, thủy thủ đoàn cũng ngoắc lại nhưng
không đến cứu".
Có một câu hỏi được đặt ra là việc bắt binh sĩ VNCH làm
tù binh được phát ra từ cấp có thẩm quyền cao nhất của Trung Cộng, hoặc của Chỉ
huy trưởng lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa hay chỉ là quyết định của các
thuyền trưởng riêng lẻ trong lực lượng Hải quân Trung Cộng? Bởi việc có một “chỉ
thị” nhất quán sẽ nói lên những hàm ý về tính chất của tranh chấp và việc giải
quyết mâu thuẫn sau đó. Trên thực tế, các chiến sĩ VNCH bị bắt chủ yếu là những
chiến sĩ đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa như Địa phương quân, nhân viên khí
tượng và 14 nhân viên thuộc HQ-4 đã đổ bộ lên đảo Cam Tuyền trước đó. Như vậy,
Hải quân Trung Cộng không bắt các chiến sĩ trực tiếp tham chiến trên 4 tàu chiến
của Hải quân VNCH làm tù binh mặc dù điều đó nằm trong tay của Hải quân Trung
Cộng như trường hợp của các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm HQ-10.
Ngay sau khi các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo
(HQ-10) được cứu vớt và về đất liền, Ngoại trưởng VNCH lên án Trung Cộng: “Đã
xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một cách trái phép 121
binh sĩ của Quân lực VNCH, vì vậy Trung Cộng phải có nhiệm vụ trả tự do ngay cho
các người này, chứ không cần phải có một thời gian nào đó thuận tiện như là Tân
Hoa xã đã loan tải". Dưới áp lực về ngoại giao và tổ chức Hồng thập tự quốc tế,
Trung Cộng đã tiến hành trao trả tổng số 48 tù binh, nhưng không được trao trả 1
đợt mà thành 2 đợt và tổ chức trong im lặng.
Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31-01-1974 “gồm 4
chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng Đông và
Hương Cảng". Đợt thứ hai vào ngày 17/02/1974 có “43 tù binh VNCH vừa được Trung
Cộng thả hôm chủ nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa". Trong số đó
“có 13 hải quân, 23 chiến sĩ địa phương quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân
viên khí tượng thuộc Đài khí tượng Hoàng Sa. Việc trao trả sẽ được diễn ra tại
Tân Giới giữa Hồng Kông và Trung Hoa lục địa".
Trong đợt trao trả thứ nhất, chỉ có 5 tù binh và có người
Mỹ, đồng nghĩa với việc liên quan đến quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ, điều này
hiển nhiên sẽ tác động quyết định đến việc Trung Cộng cần trao trả càng sớm càng
tốt. Trong lần trao trả thứ hai, “có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa.
Vì anh ấy là tù binh duy nhất nói được Hoa ngữ nên anh đã làm thông dịch viên
cho tù binh VNCH. Thủy thủ Lý Chánh Hùng nói rằng anh không muốn ở lại Hoa lục
vì mỗi ngày anh và các đồng đội phải trải qua 3 tiếng đồng hồ tuyên truyền chính
trị của Trung Cộng mặc dù Trung Cộng cho ăn uống khá”, vậy Trung Cộng cần giam
giữ tù binh trong thời gian lâu hơn và có người Hoa để “tuyên truyền chính trị”
nhằm xuyên tạc những sự thật lịch sử. Và, vô hình chung làm lộ rõ sự “bất chính”
của Trung Cộng đối với sự kiện hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm
1974.
Ngược lại, VNCH muốn “đường đường chính chính” việc trao
trả tù binh phải diễn ra công khai và được báo chí xâm nhập để chính minh tính
“chính nghĩa” và là một “nạn nhân” như thế nào. Việc này VNCH không thể làm theo
ý mình vì việc trao trả tù binh diễn ra trên ở Trung Cộng và do họ quyết định
thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, chính quyền VNCH đã chứng minh tính “chính
nghĩa” bằng cách khác là tổ chức đón tiếp các chiến sĩ tham chiến khi về Việt
Nam và thưởng cho họ một cách nồng hậu, các chiến sĩ trở thành đại diện cho
ý chí của Việt Nam trong việc chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
Trước hết là đối với các chiến sĩ chiến đấu trở về nhưng
không bị bắt làm tù binh, thì ngày 30-1-1974, “Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt về
tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của
nhiều thân nhân thủy thủ đoàn. Đề đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải quân VNCH đã
trao Anh dũng Bội tinh cho Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng HQ-16 cùng một số sĩ
quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thủy thủ. Các nữ sinh cũng choàng vòng hoa chiến
thắng và sau đó các thân nhân thủy thủ đoàn được mời lên thăm chiến
hạm".
Đối với các tù binh được trao trả, khi về đến Sài
Gòn, có “một buổi lễ tiếp đón vô cùng long trọng sẽ được Phủ TUDV phối
hợp với Tổng CTCT và các Tòa Đô chánh tỉnh Gia Định, với sự tham dự các đoàn thể
sinh viên học sinh của các Hội đồng dân cử, các thân hào nhân sĩ. Tổ chức ngay
tại phòng khách Danh dự phi trường Tân Sơn Nhất".
Đồng thời, để “tưởng thưởng những chiến sĩ Hải quân can
trường chiến đấu tại Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao trao tặng một ngân phiếu một triệu
đồng cho các thương binh và gia đình của tử sĩ Hải quân tham chiến tại Hoàng Sa
ngày 19-01-1974 vừa qua…. Ngoài ra, để ghi ơn các anh hùng tử sĩ cao đậm đã ngã
gục lại hải đảo Hoàng Sa trong chiến trận vừa qua, tên tuổi của một số anh hùng
có thể sẽ được chính quyền chấp thuận cho đặt tên một số đường phố tại Thủ
đô".
Những hành động trên của chính quyền VNCH là những phản
ứng thể hiện sự đồng thuận cao giữa chính quyền - người dân và các tầng lớp khác
nhau trong xã hội đối với việc bảo vệ chủ quyền một cách “chính đáng” trong bối
cảnh tình hình trong nước cũng như thế giới lúc bấy giờ.
Võ Hà (tổng hợp)
Nhận xét sơ bộ:
Nhận xét sơ bộ:
Bài tổng hợp làm ẩu,giữ nguyên các địa danh theo cách gọi
của Trung Quốc và có lẽ lần đầu tiên công nhận cách gọi TQ đỏ là Trung Cộng,mặc
dù chữ Trung Cộng được TQ dùng thoải mái để chỉ cộng sản TQ nhưng với VC cho là
có hàm ý xấu !!
Điều khó hiểu về tù binh trong hải chiến Hoàng Sa (Kỳ 3)
07:00 | 08/01/2014
(PetroTimes) - Đề cập đến việc trao trả các binh sĩ VNCH
bị Trung Cộng bắt giữ sẽ làm rõ nhiều vấn đề, nhất là về thái độ của các nước có
liên quan trực tiếp là Trung Cộng và VNCH cũng như tổ chức Hồng thập tự quốc tế,
bởi việc trao trả tù binh “không như bình thường”, báo chí đương thời bị bưng
bít nhiều thông tin, không tiếp cận được với các tù binh và những người thực
hiện việc trao trả tù binh.

Sau khi cuộc hải chiến diễn ra, cả hai bên giao chiến đều
có những thiệt hại nhất định dù ưu thế quân sự nghiêng về Hải quân Trung Cộng.
Bởi vậy, việc bắt chiến sĩ Hải quân VNCH làm tù binh theo những thông tin báo
chí lúc bấy giờ có những sắc thái khác nhau. Trong tổng số các chiến sĩ
VNCH tham gia vụ Hoàng Sa, sau cuộc đụng độ đã phân tán thành 4 bộ phận khác
nhau.
Bộ phận thứ nhất, điển hình là các chiến sĩ
thuộc Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), dù bị trúng đạn nhưng Tuần hạm
dương vẫn còn hoạt động được và về đến Sài Gòn. “Ngày 30-1-1974, Tuần dương hạm
Lý Thường Kiệt trúng đạn Trung Cộng về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể
tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ
đoàn".
Bộ phận thứ hai là do phương tiện chiến đấu bị
hư hỏng nên không thể hoạt động hoặc bị chìm, sau đó được cứu trợ bởi tàu nước
ngoài như trường hợp của 23 thủy thủ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). “Chiếc
hộ tống hạm trên chở 82 thủy thủ nhưng tàu của Hà Lan chỉ cứu vớt được 23 người.
Theo thiếu tá Trần Văn Ngà, phụ tá phát ngôn viên quân sự trong số 23 chiến sĩ
khi về tới Đà Nẵng, có hai người chết là Đại úy phó hạm trưởng và một hạm viên,
21 thủy thủ còn lại có 2 người bị thương nặng".
Bộ phận thứ ba là do Hải quân Trung Cộng bắt làm
tù binh, “tổng số người mất tích theo lời phát ngôn viên quân sự là 116 nhưng
nhà cầm quyền Trung Cộng nói, họ chỉ cầm giữ 48 người".
Bộ phận thứ tư chính là những chiến sĩ VNCH đã
bị mất tích trên biển. Tuy nhiên, có 3 vấn đề đáng lưu ý là: Hải quân Trung Quốc
không bắt tất cả các chiến sĩ Hải quân VNCH mà họ có thể bắt làm tù binh; sự im
lặng bất thường trong việc trao trả tù binh và sự trọng thưởng của chính quyền
VNCH đối với các chiễn sĩ tham gia trận hải chiến Hoàng Sa. Ba vấn đề này có
liên hệ khắng khít với nhau.
Các binh sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) sau khi bị
hỏa tiễn của Hải quân Trung Cộng bắn trúng hầm chỉ huy và bị chìm, trong khi đó
tàu của Hải quân Trung Cộng đi ngang qua chứng kiến tình trạng này nhưng họ
không đến bắt mà bỏ đi như lời khai của các bĩnh sĩ của Hộ tống hạm này, sau khi
được cứu vớt và về đến đất liền: “Chúng tôi có thể sắp bị bắt làm tù binh. Tôi
ngoắc thủy thủ đoàn trên tàu của Trung Cộng, thủy thủ đoàn cũng ngoắc lại nhưng
không đến cứu".
Có một câu hỏi được đặt ra là việc bắt binh sĩ VNCH làm
tù binh được phát ra từ cấp có thẩm quyền cao nhất của Trung Cộng, hoặc của Chỉ
huy trưởng lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa hay chỉ là quyết định của các
thuyền trưởng riêng lẻ trong lực lượng Hải quân Trung Cộng? Bởi việc có một “chỉ
thị” nhất quán sẽ nói lên những hàm ý về tính chất của tranh chấp và việc giải
quyết mâu thuẫn sau đó. Trên thực tế, các chiến sĩ VNCH bị bắt chủ yếu là những
chiến sĩ đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa như Địa phương quân, nhân viên khí
tượng và 14 nhân viên thuộc HQ-4 đã đổ bộ lên đảo Cam Tuyền trước đó. Như vậy,
Hải quân Trung Cộng không bắt các chiến sĩ trực tiếp tham chiến trên 4 tàu chiến
của Hải quân VNCH làm tù binh mặc dù điều đó nằm trong tay của Hải quân Trung
Cộng như trường hợp của các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm HQ-10.
Ngay sau khi các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo
(HQ-10) được cứu vớt và về đất liền, Ngoại trưởng VNCH lên án Trung Cộng: “Đã
xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một cách trái phép 121
binh sĩ của Quân lực VNCH, vì vậy Trung Cộng phải có nhiệm vụ trả tự do ngay cho
các người này, chứ không cần phải có một thời gian nào đó thuận tiện như là Tân
Hoa xã đã loan tải". Dưới áp lực về ngoại giao và tổ chức Hồng thập tự quốc tế,
Trung Cộng đã tiến hành trao trả tổng số 48 tù binh, nhưng không được trao trả 1
đợt mà thành 2 đợt và tổ chức trong im lặng.
Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31-01-1974 “gồm 4
chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng Đông và
Hương Cảng". Đợt thứ hai vào ngày 17/02/1974 có “43 tù binh VNCH vừa được Trung
Cộng thả hôm chủ nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa". Trong số đó
“có 13 hải quân, 23 chiến sĩ địa phương quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân
viên khí tượng thuộc Đài khí tượng Hoàng Sa. Việc trao trả sẽ được diễn ra tại
Tân Giới giữa Hồng Kông và Trung Hoa lục địa".
Trong đợt trao trả thứ nhất, chỉ có 5 tù binh và có người
Mỹ, đồng nghĩa với việc liên quan đến quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ, điều này
hiển nhiên sẽ tác động quyết định đến việc Trung Cộng cần trao trả càng sớm càng
tốt. Trong lần trao trả thứ hai, “có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa.
Vì anh ấy là tù binh duy nhất nói được Hoa ngữ nên anh đã làm thông dịch viên
cho tù binh VNCH. Thủy thủ Lý Chánh Hùng nói rằng anh không muốn ở lại Hoa lục
vì mỗi ngày anh và các đồng đội phải trải qua 3 tiếng đồng hồ tuyên truyền chính
trị của Trung Cộng mặc dù Trung Cộng cho ăn uống khá”, vậy Trung Cộng cần giam
giữ tù binh trong thời gian lâu hơn và có người Hoa để “tuyên truyền chính trị”
nhằm xuyên tạc những sự thật lịch sử. Và, vô hình chung làm lộ rõ sự “bất chính”
của Trung Cộng đối với sự kiện hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm
1974.
Ngược lại, VNCH muốn “đường đường chính chính” việc trao
trả tù binh phải diễn ra công khai và được báo chí xâm nhập để chính minh tính
“chính nghĩa” và là một “nạn nhân” như thế nào. Việc này VNCH không thể làm theo
ý mình vì việc trao trả tù binh diễn ra trên ở Trung Cộng và do họ quyết định
thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, chính quyền VNCH đã chứng minh tính “chính
nghĩa” bằng cách khác là tổ chức đón tiếp các chiến sĩ tham chiến khi về Việt
Nam và thưởng cho họ một cách nồng hậu, các chiến sĩ trở thành đại diện cho
ý chí của Việt Nam trong việc chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
Trước hết là đối với các chiến sĩ chiến đấu trở về nhưng
không bị bắt làm tù binh, thì ngày 30-1-1974, “Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt về
tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của
nhiều thân nhân thủy thủ đoàn. Đề đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải quân VNCH đã
trao Anh dũng Bội tinh cho Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng HQ-16 cùng một số sĩ
quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thủy thủ. Các nữ sinh cũng choàng vòng hoa chiến
thắng và sau đó các thân nhân thủy thủ đoàn được mời lên thăm chiến
hạm".
Đối với các tù binh được trao trả, khi về đến Sài
Gòn, có “một buổi lễ tiếp đón vô cùng long trọng sẽ được Phủ TUDV phối
hợp với Tổng CTCT và các Tòa Đô chánh tỉnh Gia Định, với sự tham dự các đoàn thể
sinh viên học sinh của các Hội đồng dân cử, các thân hào nhân sĩ. Tổ chức ngay
tại phòng khách Danh dự phi trường Tân Sơn Nhất".
Đồng thời, để “tưởng thưởng những chiến sĩ Hải quân can
trường chiến đấu tại Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao trao tặng một ngân phiếu một triệu
đồng cho các thương binh và gia đình của tử sĩ Hải quân tham chiến tại Hoàng Sa
ngày 19-01-1974 vừa qua…. Ngoài ra, để ghi ơn các anh hùng tử sĩ cao đậm đã ngã
gục lại hải đảo Hoàng Sa trong chiến trận vừa qua, tên tuổi của một số anh hùng
có thể sẽ được chính quyền chấp thuận cho đặt tên một số đường phố tại Thủ
đô".
Những hành động trên của chính quyền VNCH là những phản
ứng thể hiện sự đồng thuận cao giữa chính quyền - người dân và các tầng lớp khác
nhau trong xã hội đối với việc bảo vệ chủ quyền một cách “chính đáng” trong bối
cảnh tình hình trong nước cũng như thế giới lúc bấy giờ.
Võ Hà (tổng
hợp)
This entry was posted on . You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0 feed.